Thứ Hai, 31 tháng 8, 2009

Báo chí ở Việt Nam

Đối với các phóng viên ngoại quốc (phương Tây) Việt Nam không (hay chưa) có tự do báo chí. Nhà nước Việt Nam không đồng ý với quan điểm này của giới báo chí phương Tây. Cứ mỗi lần có ai đặt vấn đề tự do báo chí thì Người phát ngôn Bộ ngoại giao lặp lại quan điểm rằng Việt Nam có tự do báo chí, rồi lấy con số mấy trăm tờ báo ra làm bằng chứng.

Nhưng thật sự tôi không thấy con số tờ báo có liên quan gì đến tự do báo chí cả. Ừ, thì có nhiều tiếng nói đó, nhưng hình như những tiếng nói này na ná giống nhau. Điều này cũng dễ hiểu vì tất cả báo chí chỉ trực thuộc sự kiểm soát của Đảng, nên làm sao họ nói khác được. Vấn đề là những tờ báo này chưa bao giờ là diễn đàn cho những tiếng nói phản biện, chưa bao giờ là phương tiện cho những tranh luận công khai về các vấn đề mà người dân quan tâm. Nhưng nếu có những ai lên tiếng thì có khi chuốc họa vào thân, chẳng hạn như trường hợp của một số phóng viên gần đây.

Thật vậy, dạo này, Nhà nước có vẻ bố ráp giới truyền thông rất căng. Giới phóng viên liên tục bị “hỏi thăm”, và có người thậm chí còn bị bắt bớ, giam cầm. Một bầu không khí ngột ngạt.

Tháng trước, khi còn ở TPHCM tôi đã nghe đồn đại râm ran rằng Huy Đức sẽ bị bắt, thậm chí còn nghe công an đã thông báo Sài Gòn Tiếp thị (nơi Huy Đức công tác) là sẽ bắt anh ta. Thế nhưng sau đó thì chẳng thấy công an động tĩnh gì. Nhưng (vẫn nghe nói) Huy Đức bị theo dõi gắt gao, cứ mỗi lần rời tòa soạn là có người chạy xe kè kè theo sau. Điện thoại và email cũng có thể bị theo dõi. Đến giữa tháng 8 khi còn dự hội nghị nội tiết thì tôi nghe một anh bạn cho biết Huy Đức đã bị SGTT cho nghỉ việc.

Tôi cũng thỉnh thoảng viết cho SGTT, và đồng tình với những bài viết của anh. Nói tôi ngưỡng mộ những ý kiến sắc sảo của anh cũng đúng. Do đó, khi còn ở Sài Gòn, tôi đã có ý định rủ Huy Đức đi uống cà phê, nhưng chưa làm được điều này. Hôm tháng 7 thì anh ta đi công tác, còn tôi thì sắp về Sydney. Đến tháng 8 tôi bận túi bụi nên cũng không có thì giờ để mời Huy Đức uống cà phê. Thật là tiếc! Hi vọng Huy Đức an toàn trong tương lai.

Hôm nay, đọc tin này mới biết là phóng viên Đoan Trang của TuanVietNam bị bắt. Tôi vẫn theo dõi đọc những bài viết của Đoan Trang về các vấn đề biển Đông, và rất có cảm tình với cô phóng viên mà tôi biết là còn trẻ này. Trước đây, tôi cũng thường viết cho TuanVietNam (khi đặc san này mới ra đời), nhưng sau này thì bận quá nên rất ít viết cho họ. Dù chưa ghé qua tòa soạn lần này, chưa gặp bất cứ ai trong tòa soạn, nhưng tôi nghe bạn bè báo chí kể rằng TuanVietNam chỉ do vài cô phóng viên trẻ điều hành, và điều này làm tôi phục sát đất. Những người như Đoan Trang và đồng nghiệp của chị ấy trong TuanVietNam (mà tôi không nêu tên) làm tôi còn hi vọng về giới trí thức trẻ ở trong nước.

Điều đáng nói ở đây là sự im lặng của cơ quan chủ quản SGTT Vietnamnet. Dù phóng viên của họ bị bắt nhưng Vietnamnet thậm chí không có đến một bản tin về chuyện này! Còn SGTT thì im lặng về sự ra đi của Huy Đức. Thái độ này rất khác với giới truyền thông bên Úc mà tôi biết. Còn nhớ một phóng viên của đài truyền hình số 7 và phóng viên của tờ Sydney Morning Herald ra tòa, mà họ đưa tin gần như hàng ngày. Khi một phóng viên kì cựu nào rời tờ báo, tôi thấy họ đều đưa tin rất trang trọng. Thậm chí một cây bỉnh bút đi nghỉ một thời gian (nghỉ hè hay điều trị bệnh) tờ báo đều thông báo cho độc giả biết. Nói thế thôi, chứ tôi cũng hiểu tại sao Vietnamnet SGTT im lặng, bởi vì họ chịu sự chi phối của Bộ 4T. Khi Bộ 4T không cho phép thì sao họ dám viết gì. Phải thông cảm cho họ!

Đầu tuần này thì nghe tin một blogger nổi tiếng (Người buôn gió) bị bắt. Anh nổi tiếng đến độ những ai hay đọc blog đều biết đến Người buôn gió qua loạt bài Đại Vệ Chí Vị. Có lần ngồi nói chuyện phiếm với bè bạn ở Thanh Đa, một anh bạn nói Người buôn gió chắc chắn phải là một người ngoài Hà Nội, vì theo anh, chỉ có dân “sĩ phu Bắc Hà” mới nghĩ ra những câu chuyện độc đáo và thâm thúy như thế, chứ còn dân miền Nam nếu có bức xúc quá thì chửi vài câu rồi kéo nhau đi … nhậu. Vâng, tôi cũng là một fan của Người buôn gió, và thán phục cái tâm và tầm của anh ta. Nay anh lại bị bắt làm tôi thấy buồn cho không khí báo chí ở trong nước quá.

Dù giới an ninh Việt Nam đánh giá thế nào về những phóng viên vừa kể, tôi vẫn xem họ là những công dân ưu tú và can đảm của Việt Nam.

Điều đáng chú ý là tất cả những phóng viên bị bắt bớ gần đây đều là những người từng viết bài liên quan đến Trung Quốc. Điều này dẫn đến thắc mắc: Chẳng biết các quan bộ hình nước Tề có tác động hay đứng đằng sau giật giây nước Vệ (nói theo ngôn ngữ của Người buôn gió) để bắt bớ những công dân ưu tú này?

NVT

===

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2009/08/090831_vnn_journalist_arrest.shtml

Một phóng viên của VietNamNet bị bắt

Một nhà báo thường viết mảng chính trị - xã hội của báo điện tử VietNamNet bị công an bắt giữ, nhưng chưa rõ lý do.

Ông Nguyễn Anh Tuấn, Tổng biên tập của VietNamNet, xác nhận với hãng tin Đức DPA rằng phóng viên Phạm Đoan Trang bị bắt thứ Sáu tuần trước và hiện vẫn bị tạm giữ.
Một đồng nghiệp và là bạn của cô Đoan Trang cũng xác nhận với BBC tin này.

Đoan Trang là nhà báo viết cho chuyên trang TuanVietNam.net của VietNamNet.
Trong bài viết gần đây hồi tháng Bảy, nhìn lại Hội nghị Geneva 1954, Đoan Trang dẫn các nguồn tư liệu nước ngoài, cho rằng lợi ích của Việt Nam đã bị hy sinh vì "cuộc đàm phán của các nước lớn".

Tác giả cũng nhìn nhận có sự "phân biệt đối xử" với người Việt đã ra nước ngoài vì hệ quả của chiến tranh.

Nữ phóng viên trẻ này cũng từng viết về tranh chấp Hoàng Sa - Trường Sa, khẳng định chủ quyền của Việt Nam tại đây.

Tuy vậy, VietNamNet không cho biết phóng viên Đoan Trang bị công an bắt giữ vì lý do gì.

Hôm thứ Năm tuần rồi, blogger Người Buôn Gió, thường viết các bài chỉ trích chính phủ, đã bị bắt.

Cũng trong tuần, nhà báo và là blogger nổi tiếng Huy Đức rời khỏi báo Sài Gòn Tiếp Thị sau khi tòa soạn "bất đồng quan điểm" với ông quanh bài trên blog về Bức tường Berlin.

Nhìn gần, không nhìn xa

Tháng trước, tôi gặp một anh bạn trẻ, và qua trao đổi một hồi anh ta khuyên tôi: Thầy về đây, thầy đừng nhìn tương lai quá xa hay tầm vĩ mô (vì thầy sẽ sớm thất vọng); thầy nên nhìn gần, nhìn cái vi mô, chẳng hạn như giúp bọn em vậy nè. Tôi nhớ hoài câu nói này, và tôi cũng xem đó như là một tâm nguyện của chính mình.

Hai tuần qua, do bận đi phó hội bên Việt Nam, và phải liên tục làm việc trong những ngày sau đó, nên không có dịp cập nhật trang blog. Thật ra, lần nào về Việt Nam tôi cũng bận túi bụi, chương trình làm việc hầu như kín mít từ ngày đến cho tới ngày lên máy bay về Sydney.

Tôi đã có những ngày làm việc căng thẳng mà vui vẻ ở Phú Quốc (ngoại trừ “sự cố” liên quan đến ngài phó thủ tướng). Có đêm chúng tôi phải làm việc đến hơn 12 giờ đêm để chuẩn bị cho hội nghị. Tính tôi vốn cẩn thận vì không muốn để người Việt chúng ta mất mặt trước đồng nghiệp ngoại quốc, nên tất cả các bài thuyết trình của người trong nhóm, tôi đều đòi hỏi phải được xem trước và góp ý nhằm làm cho hoàn hảo và chuyên nghiệp hơn (như đúng giờ, nội dung, cách trình bày dữ liệu, cách nói, v.v…).

Ngoài làm việc, tôi cũng có những buổi đi tắm biển sau giờ làm việc thật thoải mái. Biển Phú Quốc dù là buổi sáng nước vẫn rất ấm, nên tắm biển buổi sáng ở đây thật là thú vị. Ngoài ra, tôi còn có dịp đi câu mực, mà thật ra thì chẳng câu được con nào! Thay vào đó là nồi cháo mực đã được nấu sẵn rất ngon, kèm theo rượu sim Phú Quốc.

Sau hội nghị ở Phú Quốc, tôi bay về TPHCM để làm một workshop tại Đại học Y Dược TPHCM. Workshop hè này đã được tổ chức từ 5 năm qua, và mỗi năm một chủ đề khác nhau. Năm nay, tôi chọn chủ đề ứng dụng di truyền học trong lâm sàng. Khóa học thu hút 75 học viên, phần lớn là từ các bệnh viện và trung tâm đào tạo tại TPHCM. Tôi giảng 14 bài, đến ngày thứ 3 thì giọng bắt đầu có vấn đề. Nhưng cũng may, có đồng nghiệp nấu cho nước giá uống từ ngày đầu nên cũng không đến nỗi nào. Tôi phải mượn entry này để chân thành cám ơn bạn đồng nghiệp ẩn danh đó!

Sau workshop là hội nghị nội tiết toàn quốc tại Khách sạn New World. Hội nghị năm nay thu hút cả ngàn đại biểu từ khắp 3 miền đất nước về dự. Nói là “nội tiết”, nhưng thật ra là chủ yếu tập trung vào chủ đề tiểu đường (ở VN bây giờ người ta gọi dân dã hơn là “đái tháo đường”). Tuy nhiên, ban tổ chức cũng ưu ái giao cho tôi lên chương trình một symposium về loãng xương vào ngày 23/8. Symposium này do tôi và Gs Trần Đức Thọ chủ trì với sự tham gia của một giáo sư từ Ấn Độ và các đồng nghiệp trong nước. Phải nói symposium đã thành công vì tạo được sự chú ý của các đại biểu cho đến giây phút cuối.

Trong hội nghị tôi nói 2 bài: một bài về so sánh tỉ lệ mỡ giữa phụ nữ người Á châu và Mĩ, một bài về loãng xương. Bài đầu nhằm phản biện lại quan điểm cho rằng phụ nữ Á châu có nhiều tỉ lệ mỡ hơn phụ nữ da trắng nếu cả hai có cùng BMI. Bài này được nhiều bạn chú ý, kể cả các bạn Singapore muốn làm quen để tìm hiểu thêm.

Cũng như các hội nghị ở Việt Nam, hội nghị này cũng có những đặc điểm “rất Việt Nam”. Chẳng hạn như nhiều diễn giả nói quá giờ, bất chấp thời lượng cho phép, hay chủ tọa nhầm lẫn giữa người điều hành phiên họp và phản biện. Buồn cười nhất là một chủ tọa cứ lạm dụng vai trò của mình để phê phán và bình luận các bài nói chuyện. Tôi chưa thấy ai điều hợp chương trình với vai trò này (ngoại trừ ở Việt Nam!) Đặc biệt các đồng nghiệp miền Trung (Huế) gửi bài nhưng không vào tham dự, và cũng không báo trước dù họ đã được sắp xếp làm chủ tọa!

Lần này, Hội Nội tiết đã làm nên lịch sử: đó là sự kiện một đồng nghiệp phía Nam được bầu làm chủ tịch Hội. Đây là một tiền lệ hiếm hoi trong lịch sử y học sau 1975. Như tôi từng nói, tất cả các hiệp hội chuyên môn, các bác ngoài Bắc đều (dành) làm quyền chủ tịch, còn đồng nghiệp phía Nam chỉ làm … phó. Nó gây nên tâm lí và cảm nhận kẻ thắng người thua. Nhưng sau hơn 30 năm, tình hình có vẻ thay đổi, và thay đổi rất rất rất chậm chạp.

Sau hội nghị, tôi về quê thăm nhà và bà con. Nhưng thật ra thì tôi cũng bận, vì các bạn ở Bệnh viện Kiên Giang mời tôi nói về các tiến bộ mới trong lĩnh vực loãng xương cho các bạn ở đó nghe (vì họ không có dự hội nghị ở Phú Quốc). Thế là tôi nói chuyện nguyên một ngày ở đó. Tôi còn nói một bài về cách trình bày một báo cáo khoa học bằng Powerpoint cho các bạn ở bệnh viện. Chiều hôm đó, anh Đ mời tôi đi Cần Thơ để họp với ông thứ trưởng Bộ Y tế. Thật ra, tôi chỉ đi chơi, chứ anh Đ mới là người họp và làm việc. Tuy nhiên, tôi cũng có vài trao đổi thú vị với anh (nguyên là giám đốc Sở Y tế Kiên Giang). Tôi không dấu diếm rằng tôi không đồng ý với một số chủ trương và chính sách của Bộ Y tế liên quan đến vụ dịch tả - mắm tôm, vụ “ngực nở chân dài”, phòng chống H1N1, v.v… Hóa ra, anh cũng có cùng quan điểm với tôi về các vấn đề này.

Trong lúc ở Cần Thơ, cả tôi và anh đều nhớ món ăn Nam Bộ. Anh ấy thì than ở Hà Nội lâu quá nên nhớ món ăn miền Nam, còn tôi thì chỉ mê món ăn miền Tây. Tôi kêu món gỏi xoài khô cá sặt, nhưng ngạc nhiên thay, cô tiếp viên nói không có khô cá sặt! Thật khó tưởng tượng nổi giữa thủ đô miền Tây mà một nhà hàng hoành tráng như thế này không có khô cá sặt, nghe sao trái tai quá! Nhưng tìm hiểu một hồi tôi mới biết đây là doanh nghiệp Nhà nước, và sự thật này giải thích tất cả những nghịch lí.

Ở dưới quê được đúng 3 ngày, tôi lại khăn gói lên Sài Gòn để về nói chuyện tại một số nơi vốn nằm trong chương trình của chuyến đi. Chiều ngày 27/8 tôi nói chuyện về văn hóa khoa học cho một lớp năng khiếu của Đại học Khoa học Tự nhiên (Đại học Khoa học cũ). Đây là một lớp học dành cho các em học sinh giỏi, những em được đào tạo để giành huy chương trong các kì thì Olympic cho Việt Nam. Phần lớn là những du học sinh tương lai, vì các đại học nước ngoài cấp học bổng. Trong 2 tiếng đồng hồ, tôi nói về tình trạng thua kém của khoa học nước ta so với các nước trong vùng nhằm đánh động tự ái dân tộc của các em; tôi dùng các ví dụ về các khám phá khoa học để nói về những đặc điểm văn hóa khoa học mà các em cần phải có khi làm khoa học, và tôi “khuấy động” tự hào dân tộc của các em. Dù chỉ là những học sinh 14, 15 tuổi, nhưng các em rất thông minh, rất tự tin, hỏi rất nhiều câu hỏi hay. Cũng có cả những câu hỏi thuộc tầm “quốc gia đại sự”. Nhiều câu hỏi quá, mà tôi thì lại có chương trình journal club ở bệnh viện 115 nên đành tạm biệt các em với niềm luyến tiếc vô hạn.

Đến ngày 28/8 tôi nói chuyện về tình trạng ấn phẩm khoa học của Việt Nam tại Bệnh viện Chợ Rẫy. Nhân dịp này tôi cũng phân tích những bất cập trong các nghiên cứu y học ở Việt Nam, và đề ra một số giải pháp nhằm khắc phục những yếu kém này. Nhiều người cho rằng tôi nói quá thật và quá thẳng nên chắc hôm đó tôi đã làm cho vài người mất lòng vì chính họ nằm trong phạm vi mà tôi phê bình về chuẩn mực phong hàm giáo sư. Một anh phó giám đốc nói hóm hỉnh rằng “Với cách nói không úp mở của anh, nếu ở Hà Nội không có người ghét anh sẽ là chuyện lạ”.

Tuy nhiên, ở tại đây – Bệnh viện Chợ Rẫy – các bạn trong ban giám đốc và các đồng nghiệp khác lên tiếng ủng hộ tôi và cho rằng tôi đã phân tích chính xác tình hình trong nước. Giải thích tình trạng thiếu thông tin khoa học trong nước mà tôi nêu lên, một anh phó giám đốc và cũng là giáo sư cho tôi biết rằng chỉ mấy năm trước đây thôi, ngay cả việc đặt mua tập san khoa học từ nước ngoài cũng có thể gặp rắc rối với cơ quan an ninh! Nghe qua câu chuyện làm tôi sững sờ. Nghe điều này làm tôi nhớ đến câu nói của một đồng nghiệp khác cho biết có khi công bố quốc tế công trình nghiên cứu của mình cũng gặp khó khăn với cơ quan an ninh! Thật khó tưởng tượng nỗi trong thế kỉ 21 lại có những chuyện hài hước mà đau lòng như thế này xảy ra tại nước ta.

Trong buổi nói chuyện đó, tôi có đề cập đến một vài chuyện tế nhị bằng một cách nói dí dỏm. Một số bạn (chắc là dân sinh viên trước 1975) hiểu tôi nói gì, nên sau khi xong buổi nói chuyện, mấy anh ấy đến nói với tôi rằng “chắc ngoài quán cà phê, anh nói hay và thật hơn; lần sau phải mời anh ra quán cà phê để nói chuyện mới được”. Vâng, nói chuyện ngoài quán cà phê thì tôi nói chuyện khác vui hơn, chứ hay hơn thì không dám hứa.

Chiều hôm đó, tôi lại được mời nói chuyện tại Bệnh viện 175 ở Gò Vấp (nguyên là Tổng y viện Cộng Hòa trước 1975). Tôi nói 2 bài về sự hiện diện khiêm tốn của y học VN trên trường quốc tế và cách viết một bài báo khoa học cho các tập san quốc tế. Khác với không khí ở Chợ Rẫy, ở đây là các vị trong quân đội, nên họ hơi bị … bảo thủ. Không ai cười khi tôi nói về những bất hợp lí và yếu kém của y học nước ta. Họ quá nghiêm nghị! Tuy nhiên, đến khi thảo luận thì không khí có vẻ dễ thở hơn và thân mật hơn.

Đến ngày 29/8 tôi lại nói chuyện ở Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM theo lời mời của một anh bạn tại đây. Tôi cũng phân tích những sai sót trong các nghiên cứu y học ở Việt Nam và đề nghị một số giải pháp ngắn hạn đề khắc phục vấn đề. Hình như ai cũng nhận ra Việt Nam ta còn yếu kém, thua kém các nước trong vùng, nhưng chẳng ai biết phải làm gì để thay đổi tình thế, do mọi chuyện đều tùy thuộc vào các Bộ ngoài Hà Nội. Riêng tôi, dù nói thì vẫn nói với tất cả nhiệt tình, nhưng tôi nghĩ Việt Nam vẫn sẽ thua kém các nước trong vùng về mặt khoa học. Hai mươi hay ba mươi năm nữa, nước ta vẫn còn thua họ; đừng nói đến chuyện đuổi kịp họ. Với những tiêu cực có hệ thống từ trên xuống dưới như hiện nay, khó mà thay đổi được tình thế trong vòng 20 hay 30 năm. Có lẽ đến ngày những người thuộc thế hệ chúng tôi nằm xuống, chúng tôi chưa chắc nhìn thấy nước mình ngẩng cao mặt nhìn thiên hạ. Tôi biết đó là cái nhìn bi quan, nhưng tôi chưa có lí do gì để lạc quan về lâu về dài cả. Nhưng hiện nay, tôi làm theo lời khuyên một anh bạn trẻ và cũng là suy nghĩ của tôi: tránh nhìn về viễn cảnh xa xôi (sợ bi quan), chỉ nhìn hiện tại tìm cái tích cực hơn, làm được việc gì có ích cho quê nhà thì phải làm hết lòng.

Chiều ngày 29/8 tôi lên máy bay về Sydney, kết thúc hai tuần làm việc căng thẳng mà vui ở VN. Trong chuyến đi ngắn ngũi vừa qua, tôi quan sát được nhiều điều mà tôi nghĩ là thú vị. Chuyện “thế thái” hình như buồn nhiều hơn vui. Có khi tôi muốn làm như ông Ghandi với hình 3 con khỉ: không nói, không nghe, và không thấy để lòng mình an lành hơn. Nhưng khổ nỗi tôi làm không được như 3 con khỉ đó, nên vẫn còn bận tâm. Vài ngày nữa, khi có thì giờ tôi sẽ ghi lại những cảm nhận của mình trong chuyến về quê vừa qua.

NVT

Thứ Sáu, 21 tháng 8, 2009

Vaccine phòng chống cúm A/H1N1 của TQ

Trong bất cứ một đại dịch cúm nào, vaccine đóng một vai trò quan trọng trong việc phòng chống nhiễm virus cúm. Trong thời đại công nghệ sinh học, đại dịch cúm A/H1N1 là một mối lo của người dân toàn cầu, nhưng lại là một cơ hội vàng son đối với các công ti sản suất vaccine vì đây là thời điểm để họ hái ra tiền.

Các “đại gia” trong kĩ nghệ dược phẩm trên thế giới chạy đua bào chế những vaccine phòng chống cúm A/H1N1. Ngoài các công ti có tiếng trên thế giới, còn có một số công ti nhỏ hay mới xuất hiện như Sinovac (Trung Quốc) và CSL (Úc). Công ti CSL của Úc, một công ti có kinh nghiệm về vaccine, cho biết họ đã thử nghiệm một vaccine phòng chống A/H1N1, và nếu kết quả khả quan, vaccine có thể đưa vào sản xuất hàng loạt vào tháng 9/2009.

Ngày 3/8 vừa qua, Sinovac tuyên bố rằng họ đã thử nghiệm thành công vaccine ngừa cúm A/H1N1 đầu tiên trên thế giới. Mặc dù thông cáo báo chí của công ti (có trên trong thị trường chứng khoán) đề cập đến “thành công”, nhưng trong thực tế thì không hẳn như thế. Theo thông tin của công ti, công trình thử nghiệm lâm sàng vaccine được thực hiện từ ngày 22/7/2009 với 1.614 tình nguyện viên (bao gồm 101 người cao tuổi, 706 trung niên, 404 thiếu niên, và 403 trẻ em) đã được tiêm chủng vaccine. Trong thời gian 3 ngày theo dõi, có 12% người phản ứng thuốc, nhưng những phản ứng này được xem là nhẹ, không có trường hợp nào được đánh giá là nghiêm trọng.

Tuy nhiên, đó là dữ liệu về an toàn của vaccine; dữ liệu quan trọng hơn về hiệu quả lâm sàng của vaccine thì không được đề cập đến. Chúng ta không biết trong thời gian theo dõi có bao nhiêu người được tiêm và bao nhiêu người không được tiêm vaccine bị nhiễm virus cúm A/H1N1. Dữ liệu cực kì quan trọng này chưa được công bố. Thật ra, kết quả mà công ti Sinovac công bố trên báo chí chưa bao giờ được công bố trên bất cứ một tập san y khoa quốc tế nào. Do đó, rất khó biết hiệu quả lâm sàng của vaccine ra sao.

Nhưng chúng ta không nên quá kì vọng vào vaccine để phòng chống cúm A/H1N1. Nếu vaccine có hiệu quả phòng chống virus cúm A/H1N1, thì kết quả đó nên được diễn giải như thế nào, và có ý nghĩa gì với việc phòng chống cúm ở qui mô cộng đồng? Câu trả lời nằm ở tỉ lệ người bị nhiễm virus A/H1N1 trong cộng đồng nếu không được tiêm chủng vaccine. Trong tình huống nghiêm trọng nhất, tỉ lệ nhiễm virus A/H1N1 trong dân số là 0,2%, và nếu vaccine có hiệu quả ngăn ngừa được cúm A/H1N1 50%, thì điều này có nghĩa là chúng ta phải tiêm vaccine cho 1000 người để ngăn ngừa 1 ca bị nhiễm. Hiệu quả kinh tế của con số này còn tùy thuộc vào giá thành của vaccine. Nếu vaccine tốn 5 USD một liều, điều này có nghĩa là cộng đồng phải chi ra 5000 USD chỉ để phòng ngừa 1 ca bệnh cúm!

Ngay cả Tamiflu và Zanamivir là hai loại thuốc được đề cập khá nhiều trong việc điều trị và phòng ngừa cúm. Nhiều nghiên cứu lâm sàng cho thấy hai thuốc này có hiệu quả giảm thời gian mắc triệu chứng cúm khoảng … 1 ngày (so với không điều trị). Một số nghiên cứu khác cho thấy Tamiflu và Zanamivir không có tác dụng phòng ngừa cúm, hay làm giảm phát triển triệu chứng giống cúm. Thật ra, có nghiên cứu cho thấy người sử dụng hai thuốc này có triệu chứng cúm cao hơn nhóm không dùng thuốc từ 28%, đến 51% dù sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê.

Vaccine không phải là biện pháp duy nhất phòng chống cúm; biện pháp không y tế công cộng (không dùng vaccine) có thể có hiệu quả tương đương với vaccine. Một nghiên cứu mới công bố vào tuần qua cho thấy chỉ đơn giản rửa tay thường xuyên bằng xà phòng có thể giảm nguy cơ nhiễm cúm A/H1N1 khoảng 42%. Do đó, trong khi chờ đợi vaccine, chúng ta có thể áp dụng những biện pháp đơn giản như vệ sinh cá nhân và nhận dạng ca bệnh sớm để điều trị kịp thời để phòng ngừa dịch cúm ở qui mô cộng đồng.

NVT

Thứ Năm, 20 tháng 8, 2009

Sự quan liêu của quan chức cao cấp

Tôi vừa dự một hội nghị chuyên ngành từ Phú Quốc về, và trong thời gian ngắn ngủi đó cũng được nhìn thấy sự quan liêu và lãng phí ghê gớm trong các quan chức cao cấp ở nước ta.

Hội nghị thu hút khoảng 270 người đến tham dự, với sự tài trợ nhiệt tình của các công ti dược. Khách sạn Sasco Blue Lagoon Resort được chọn làm nơi tổ chức, và khách tham dự đã đặt phòng từ một tháng trước. Tưởng rằng đã đặt phòng thì chắc ăn sẽ có phòng để ở, nhưng ở Việt Nam “sự đời” không đơn giản như thế. Một số khách đến ngày hội nghị, đến nơi check-in thì được biết là đã … mất phòng! Tại sao? Tại vì phái đoàn tùy tùng của ông phó thủ tướng Hoàng Trung Hải ra thị sát hay đi holiday gì đó ở đảo Phú Quốc, và vì khách sạn là của Nhà nước, nên họ phải dành phòng cho tùy tùng của ông phó thủ tướng, và tống cổ khách đi khách sạn khác. Một kiểu làm business rất đặc thù của các công ti thuộc Nhà nước Việt Nam.

Chưa hết. Khoảng 10 khách mời và diễn giả (speakers) của hội nghị từ Hà Nội cũng không tham dự được, cũng chỉ vì người ta dành ưu tiên cho chuyến bay của ông Hoàng Trung Hải. Cần nói thêm rằng những người này đã mua vé máy bay (Vietnam Airlines) từ cả tháng trước. Nhưng bất chấp mọi qui luật business, Vietnam Airlines vẫn lấy chỗ của các hành khách này để cho đoàn tùy tùng của ông Hoàng Trung Hải! Một số còn “đau” hơn, vì họ đã bay vào Sài Gòn, nhưng đành phải bay về Hà Nội chứ không có chỗ để đi Phú Quốc.

Tôi có cơ duyên được tạm trú tại khách sạn Sasco Blue Lagoon Resort cùng với ông Hoàng Trung Hải, nhưng không có cơ duyên diện kiến ngài. Tôi thường ăn sáng tại một nhà ăn có 2 tầng, và tôi thường chọn tầng trên để nhìn ra biển. Nhưng vì sự có mặt của Hoàng Trung Hải nên tôi và một số bạn bị đuổi xuống tầng dưới. Làm quan lớn cỡ như ông Hoàng Trung Hải đúng là sướng thiệt vì được “ăn trên ngồi trước”, cũng là một hình thức đóng vai các quan thuộc địa của Pháp ngày xưa mà Ba tôi thường kể lại.

Đến ngày ngài phó thủ tướng Hoàng Trung Hải lên đường về Hà Nội thì lại là một sự kiện trên đảo Phú Quốc. Xe quân đội biển số đỏ chận các nút đường, và xe công an biển xanh hú còi, dọn đường cho xe của ngài đi.

Nghe nói ông Hoàng Trung Hải và tùy tùng đi thị sát tiến độ thi công sân bay Phú Quốc. Nhưng cũng có tin là ông ta đi thị sát công trình gì đó ở Hà Tiên rồi nổi hứng ra Phú Quốc chơi. Nhưng dù là Hà Tiên hay Phú Quốc thì ông ta cũng chỉ tiêu ra vài phút ngắm nhìn công trình, chỉ tay phía bên này, chỉ tay phía bên kia để phóng viên chụp hình. Tính ra thời gian ông Hoàng Trung Hải lưu lại trên Phú Quốc chỉ có một ngày, nhưng ông ta và tùy tùng ông ta đã gây ra biết bao phiền toái cho người dân. Đó là chưa nói đến khoản chi phí rất lớn để lo cho ông ấy và tùy tùng của ông ấy.

Nói lên sự lãng phí tôi còn chứng kiến một tình hình khác. Số là ngày 13/8 có hội nghị về quản lí bệnh viện vùng Đông Nam Á do Hội Y học TPHCM tổ chức tại khách sạn Equatorial. Hội nghị thu hút khoảng 300 khách, nhưng có đến 2 quan chức cao cấp trong chính phủ đến đọc diễn văn: đó là ông phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân và bộ trưởng y tế Nguyễn Quốc Triệu. Hai ông này phải bay từ Hà Nội vào Sài Gòn, ở khách sạn Equatorial (phòng dành cho VIP), và mỗi ông có vệ sĩ đi theo cộng với một hay hai thư kí. Ban tổ chức trả tiền phòng mệt nghỉ. Đó là chưa nói đến phong bì cho 2 ông. Hôm đó tôi đi ăn sáng và thấy cho vệ sĩ đi theo, tôi tưởng là họ đi … bảo vệ tôi :-), nhưng không họ bảo vệ 2 ông quan kia đi … ăn sáng. Trời! Đây là khách sạn 5 sao, có ai mà hành hung hai ông ấy để phải có vệ sĩ đi theo! Thật ra, phần lớn khách trong khách sạn cũng chẳng ai biết hai ông ấy là ai. Đúng là hợm hĩnh!

Sống ớ nước ngoài lâu, tôi chưa bao giờ chứng kiến cái cảnh bộ trưởng hay phó thủ tướng đi mà có xe cảnh sát dọn đường, chưa bao giờ chứng kiến cảnh bộ trưởng, thậm chí thủ tướng, ăn trên ngồi trước. Tôi cũng từng có cơ duyên gặp một hay hai bộ trưởng Úc nên thấy được phong cách bình dân của họ như thế nào. Thủ tướng Úc đi công tác các tiểu bang chỉ có 2 người (ông ấy và bảo vệ) và đi trên chuyến bay dân sự như mọi người dân khác. Còn ở Việt Nam, tôi thấy các quan chức cứ như là những ông trời hay thần thánh sao ấy.

NVT

Thứ Hai, 10 tháng 8, 2009

Văn hóa hội họp

Bài này vốn là một "phản hồi" về một lá thư của một bạn đọc trên TT. Bài đăng xong thì hôm qua tôi lại chứng kiến những gì tôi viết xảy ra y chang trong một hội nghị ở TPHCM. Một hội nghị chỉ vài trăm người mà có đến 1 phó thủ tướng và 1 bộ trưởng đến tham dự, ủa quên, đọc diễn văn! Tốn biết bao nhiêu tiền! Hai ông VIP này phải bay từ Hà Nội vào Sài Gòn, đem theo vệ sĩ, nhân viên tùy tùng biên chép, tất cả đều ở phòng VIP khách sạn 5 sao, v.v... Tốn rất nhiều tiền. Mà, hai vị này chỉ đọc bài diễn văn đã được viết sẵn trong vòng 5-10 phút. Do đó, nếu tính toán chi li theo giờ thì chi phí cho 2 vị này rất cao (và đó là chưa kể "bao thư"). Tôi tự hỏi chẳng hiểu sao ban tổ chức phải tốn quá nhiều tiền như thế trong khi nước này còn quá nghèo.

Hôm qua tôi cũng có một kỉ niệm nhỏ mà vui vui. Số là khách sạn và ban tổ chức hội nghị phải trải thảm đỏ cho 2 vị VIP đi từ cổng khách sạn lên tầng 2 của hội trường hội nghị. Hai bên đường là một số quan chức và các cô cầm những bó hoa (chẳng biết để làm gì!) chào đón hai ông VIP. Tôi mắc việc gấp nên phải đi qua thảm, nhưng bị chận lại vì họ nói rằng VIP chưa đến, tôi không được bước qua thảm khi VIP chưa đi qua! Wow! Quan liêu thật. Tò mò, tôi đứng xa xem VIP ra sao thì 2 phút sau thấy VIP phó thủ tướng đi qua, rồi VIP thứ 2 đi sau, cùng với bầu đoàn thê tử. Chờ các VIP đi xong, tôi hỏi là bây giờ tôi bước qua được chưa, thì được trả lời là ok. Thật ra, tôi chỉ đùa thôi, vì tôi bước ra ngoài khách sạn và đánh một vòng phía ngoài để khỏi phải bước theo vó của các VIP trên tấm thảm đỏ đó. Tôi thấy mình hài lòng lắm.

NVT

===

http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=330285&ChannelID=118

Văn hóa hội họp

TT - Những thói quen được mô tả trong bài “Những thói quen không đẹp mắt” (Tuổi Trẻ ngày 1-8-2009) là hoàn toàn đúng với thực tế, và những thói xấu đó phản ánh một sự thấp kém về văn hóa hội họp. Sự thấp kém đó gieo một ấn tượng tiêu cực trong người nước ngoài về con người và văn hóa VN, nhất là trong kinh doanh và hoạt động khoa học.

Quả thật, kinh nghiệm cá nhân của tôi trong các hội nghị khoa học ở VN cho thấy nhiều nhà khoa học xứ mình hình như chưa quen với những quy ước trong hội họp nên không ít người rất vô tư nói chuyện ồn ào, mở điện thoại di động như ở văn phòng mình (thậm chí có người còn la hét nhân viên trong điện thoại!), không để ý theo dõi diễn giả hay bài thuyết trình, ăn mặc xốc xếch... làm nhiều khách nước ngoài nhìn vào thấy ngao ngán.

Ngoài những thói xấu trên, tôi còn ghi nhận một số thói quen khác cũng có thể liệt vào loại thói xấu của “phe ta”.

Thứ nhất là nói quá giờ. Trong các hội nghị khoa học, tôi thấy các diễn giả VN thường không để ý đến thời lượng cho phép nên nói quá giờ, và đó là một sự mất lịch sự cho diễn giả kế tiếp.

Thứ hai là hay tỏ ra lên lớp với diễn giả. Thông thường khi một bài thuyết trình hay bài nói chuyện xong là đến phần câu hỏi và thảo luận với diễn giả, và theo quy ước chung là người hỏi và trả lời phải giới hạn trong nội dung bài nói chuyện và giới hạn trong vòng 1 hay 2 phút. Thế nhưng rất nhiều lần tôi thấy các vị “cây đa cây đề” không đặt câu hỏi mà lại đứng lên lên lớp với diễn giả, hay phát biểu quan điểm cá nhân của họ, tức chẳng ăn nhập gì với bài nói chuyện! Lại có người rất thích tấn công diễn giả bằng những bắt bẻ chi tiết chẳng quan trọng làm mất thì giờ buổi hội thảo.

Ở nước ngoài, tôi từng chứng kiến những “cây đa cây đề” trên 80 tuổi lắng nghe diễn giả thuộc hàng học trò, thậm chí con cháu của họ, bằng một thái độ hết sức nghiêm chỉnh. Ngay cả khi đứng dậy hỏi, các vị này vẫn phải xếp hàng chờ đến lượt mình, và lúc nào cũng lịch sự với đồng nghiệp trẻ tuổi. Có khi hai bên thầy trò bất đồng ý kiến, người ta chỉ nói nhẹ nhàng và hóm hỉnh: “Chúng ta nhất trí rằng chúng ta không đồng ý với nhau”. Đó là văn hóa hội họp mà theo đó dù mình không đồng ý với diễn giả, mình vẫn cho diễn giả một cơ hội phát biểu quan điểm của họ.

Thứ ba là bỏ về nửa chừng khi hội thảo chưa xong. Một thói quen xấu trong các hội nghị ở VN mà tôi hay thấy là buổi sáng hội nghị được khai mạc hoành tráng với hàng loạt diễn văn của các quan chức, người dự đông đủ, nhưng sau lần giải lao đầu tiên các quan chức đọc diễn văn đi hết, và số người dự giảm thấy rõ. Đến buổi chiều thì có khi chỉ còn 1/3 người dự.

Thứ tư là thủ tục khá rườm rà. Tôi thấy nhiều hội nghị khoa học ở VN chẳng giống ai ở điểm có quá nhiều diễn văn trước khi khai mạc hội nghị. Chẳng hạn như một hội nghị tầm quốc gia thì thế nào cũng có bộ trưởng (hay người đứng đầu ngành) phát biểu vài ba câu, rồi đến chủ tịch hội, rồi đại diện địa phương, rồi ban tổ chức, rồi nhà tài trợ... làm mất một giờ đồng hồ.

Ở nước ngoài các hội nghị thu hút nhiều đại biểu, mà chỉ có một bài diễn văn khai mạc duy nhất kéo dài không đầy 5 phút, không có đại diện chính quyền, và chắc chắn chẳng có bộ trưởng nào rảnh việc để đi nói chuyện trong các hội nghị chuyên ngành như thế.

Tuy nhiên, tôi phải nói ngay rằng những thói xấu này không phải chỉ có ở VN, mà còn xuất hiện tại một số hội nghị ở vùng Đông Nam Á, Trung Quốc mà tôi từng dự. Tuy nhiên, vẫn theo kinh nghiệm cá nhân, tần số xảy ra ở VN có vẻ cao hơn các nước trong vùng. Ngay cả ở cộng đồng người Việt ở nước ngoài, những người đã có ít nhiều tiếp xúc với phương Tây, những thói xấu đó vẫn còn tồn tại.

NVT


10 quy ước hội họp

1. Khi được mời tham dự hội họp hay hội thảo, nên trả lời thư mời để tỏ sự kính trọng đến người mời.

2. Đi họp đúng giờ. Tốt nhất là đến trước giờ để chuẩn bị tốt.

3. Phải chuẩn bị tốt. Luôn luôn đem theo giấy bút hay các tài liệu cần thiết để trình bày hay thảo luận.

4. Không ngắt lời diễn giả. Phải lắng nghe diễn giả hết câu rồi mới đến lượt mình phát biểu.

5. Giữ im lặng. Không ồn ào, không gây tiếng động bất thường, và điện thoại di động phải chuyển sang chế độ rung.

6. Xếp hàng chờ phát biểu. Khi đặt câu hỏi nên giơ tay và chờ chủ tọa gọi để phát biểu.

7. Khi đặt câu hỏi cần phải ngắn gọn, đi thẳng vào vấn đề, và chỉ hỏi một câu. Nếu hỏi nhiều câu phải nói rõ câu 1, câu 2...

8. Chú ý lắng nghe vấn đề diễn giả muốn nói để tránh lạc đề. Tránh hỏi những chi tiết không quan trọng và không dính dáng đến vấn đề đang thảo luận.

9. Kiên nhẫn và bình tĩnh. Không nên tỏ ra hối hả, sốt ruột, không gõ viết, không chỉ tay, không đập bàn và không nên lên lớp với diễn giả.

10. Tham dự hội họp từ đầu đến cuối. Chỉ rời hội trường khi hội nghị chấm dứt. Không nên bỏ ra giữa chừng trong khi bất cứ một diễn giả nào đang nói chuyện.

Chín lí do cho công bố quốc tế

Bác sĩ K sau khi điều trị thành công một số ca ung thư tại bệnh viện bằng một dược thảo hiếm, và qua tìm hiểu trong y văn về thành phần hóa học của dược thảo, chị và đồng nghiệp thực hiện một nghiên cứu lâm sàng để đánh giá sự hiệu quả của dược thảo. Sau 2 năm nghiên cứu và theo dõi bệnh nhân kết quả nghiên cứu cho thấy quả thật dược thảo có hiệu quả giảm nguy cơ tử vong ở bệnh nhân ung thư 30%. Bác sĩ K và đồng nghiệp viết một bài báo khoa học mô tả qui trình nghiên cứu và báo cáo kết quả gửi cho một tập san y khoa Mĩ. Sau 9 tháng bình duyệt và phản biện, công trình nghiên cứu được công bố. Với sự cộng tác của đồng nghiệp, chị tiếp tục công trình nghiên cứu bằng cách triển khai một loạt nghiên cứu về tế bào và lâm sàng, và tiếp tục công bố nhiều bài báo khoa học cho thấy hiệu quả của dược thảo có cơ sở khoa học. Với công trạng đó, chị được đề bạt chức danh phó giáo sư, và phát triển thành một nhóm nghiên cứu nhỏ. Phát hiện của chị được đồng nghiệp quốc tế quan tâm. Chị được mời đi nói chuyện ở các hội nghị quốc tế. Chị nhận được nhiều lời mời từ nhiều đồng nghiệp trên thế giới hợp tác, trong đó có một số công ti dược đề nghị phát triển thành một loại thuốc điều trị ung thư.

Trường hợp mà tôi vừa mô tả không phải là một ví dụ mang tính tưởng tượng, mà đã trở thành thực tế ở nhiều nước đang phát triển. Ví dụ trên cho thấy: (a) nghiên cứu xuất phát từ nhu cầu thực tế, hay trong trường hợp trên là nhắm vào việc đem lại phúc lợi cho bệnh nhân không chỉ ở địa phương mà cho thế giới; (b) công bố kết quả nghiên cứu trên một tập san quốc tế có uy tín và chất lượng là một cơ hội mở rộng hợp tác quốc tế và đem lại lợi ích cho kinh tế nước nhà; (c) về mặt cá nhân, công bố quốc tế giúp cho sự nghiệp khoa học của nhà nghiên cứu được nâng cao; và (d) góp phần vào việc nâng cao y học nước nhà.

Thế nhưng gần đây có ý kiến cho rằng không nên bàn về công bố quốc tế (một vấn đề đang thu hút quan tâm của các nhà khoa học có tâm huyết hiện nay) mà nên cải cách lương bổng và hệ thống đánh giá nghiên cứu khoa học (vốn đã được rất nhiều người nêu lên nhiều lần trong 20 năm qua). Thật ra, công bố kết quả các công trình nghiên cứu trên các tập san khoa học quốc tế (gọi tắt là “công bố quốc tế”) chỉ là một trong những bước cần thiết trong cách đánh giá nghiên cứu khoa học, cho nên không nên lẫn lộn hai khía cạnh có liên quan mật thiết này. Ở đây, tiếp theo một bài viết trước (“Một vài hiểu lầm tai hại”) người viết bài này trình bày 9 lí do tại sao cần phải công bố quốc tế. Thật ra, còn nhiều lí do khác, nhưng 9 lí do này được xem là quan trọng nhất trong bối cảnh khoa học hiện nay ở nước ta. Chín lí do không xếp theo thứ tự quan trọng mà chỉ theo một thứ tự theo chủ đề mà giới khoa học quan tâm.

Lí do 1: Nghĩa vụ và đạo đức

Bài báo khoa học là một bước cuối cùng trong qui trình nghiên cứu khoa học. Nó là thành quả của nhiều năm tháng miệt mài suy nghĩ, làm thí nghiệm, thu thập dữ liệu, phân tích và thảo luận cùng đồng nghiệp. Trong nhiều trường hợp, ngân quĩ nghiên cứu được Nhà nước cung cấp, hay nói chính xác hơn là tiền của người dân đóng góp. Do đó, công chúng có quyền đòi hỏi nhà nghiên cứu phải công bố kết quả nghiên cứu một cách minh bạch và thành thật, chứ không phải là những tài liệu được xếp trong tủ sách mà rất ít người có thể tiếp cận. Bổn phận của nhà nghiên cứu, do đó, phải báo cáo cho công chúng biết họ đã làm ra sao và phát hiện gì, chứ không phải làm xong và chẳng ai biết.

Đối với các nghiên cứu y khoa (như trường hợp tôi vừa mô tả), đại đa số nghiên cứu đều dựa vào sự tình nguyện của bệnh nhân, với một số thủ thuật nghiên cứu có thể mang tính xâm phạm bệnh nhân. Nếu những nghiên cứu như thế mà kết quả không được công bố một cách minh bạch thì có thể nói rằng nhà nghiên cứu đã vi phạm y đức.

Do đó, việc công bố kết quả nghiên cứu là một nghĩa vụ của nhà nghiên cứu đối với người dân và trong trường hợp y khoa, đó cũng là một hình thức duy trì y đức ở mức cao nhất.

Lí do 2: Đóng góp vào tri thức quốc tế

Ai cũng biết rằng tri thức con người được tích lũy theo thời gian, với sự đóng góp của nhiều người từ nhiêu quốc gia. Trong quá khứ, phần lớn tri thức khoa học xuất phát từ các nước phương Tây, nơi mà văn hóa khoa học (kể cả văn hóa công bố ấn phẩm khoa học) đã được hình thành tốt. Nhưng ở các nước châu Á, tri thức khoa học thường không được công bố mà chỉ giới hạn trong gia tộc hay thậm chí theo nhà khoa học xuống đáy mồ! Ngay cả ở Việt Nam trước đây, những tri thức khoa học về con người, địa lí, văn hóa, thậm chí lịch sử đều do người Pháp làm chủ.

Bài báo khoa học là một sản phẩm tri thức. Những tri thức mang tính thực tế có thể đem lại phúc lợi cho xã hội, hay trong trong trường hợp vừa mô tả trên, kết quả nghiên cứu cung cấp một tri thức quan trọng cho chuyên ngành và thêm một lựa chọn trong việc điều trị. Do đó, công bố quốc tế không chỉ là một hình thức làm chủ kiến thức cho nước nhà, mà còn đóng góp vào kho tàng tri thức của con người.

Lí do 3: Phúc lợi xã hội

Tất cả nghiên cứu dù ứng dụng hay cơ bản đều không ít thì nhiều nhắm đến việc đem lại phúc lợi cho xã hội. Chẳng hạn như trong trường hợp mô tả trên đây, nghiên cứu có mục tiêu liên quan mật thiết đến bệnh nhân ung thư. Nếu kết quả nghiên cứu cho thấy dược thảo không có hiệu quả, nhà nghiên cứu cần phải công bố cho cộng đồng quốc tế biết để những người đi sau không phải tốn công và tiền bạc để theo đuổi, hoặc người đi sau sẽ tìm một phương pháp nghiên cứu tốt hơn. Nếu kết quả nghiên cứu cho thấy dược thảo có hiệu quả tốt, nhà nghiên cứu cũng cần công bố để đồng nghiệp biết đến và có thể ứng dụng cho việc điều trị bệnh nhân của họ.

Nói cách khác, việc công bố quốc tế không phân biệt nghiên cứu cơ bản hay ứng dụng, và cũng không phân biệt nghiên cứu có kết quả “dương tính” hay “âm tính”. Đối với y sinh học, dù kết quả nghiên cứu thế nào thì việc công bố quốc tế cũng là một việc lam tất yếu.

Lí do 4: Chứng từ khoa học

Tháng 3 năm 2005, trong phiên tòa xét xử đơn kiện của Hội nạn nhân chất độc da cam Việt Nam (kiện các công ti hóa chất Mĩ), thẩm phán Jack Weinstein phán quyết rằng phía nguyên đơn không cung cấp được những bằng chứng khoa học để làm cơ sở cho đơn kiện, còn những “bằng chứng” mà phía nguyên đơn cung cấp chỉ được xem là “chuyện tào lao”.

Trong một bài báo khoa học mà tôi và đồng nghiệp sắp công bố, chúng tôi có bàn về hiệu quả của chính sách y tế công cộng ở Việt Nam liên quan đến một bệnh truyền nhiễm, nhưng một chuyên gia bình duyệt phê bình rằng lời nhận xét đó thiếu bằng chứng khoa học và yêu cầu chúng tôi cho xem một bài báo khoa học để làm cơ sở cho nhận xét đó. Tất nhiên, chúng tôi không có một bài báo khoa học nào để làm cơ sở cho nhận định đó. Thời gian gần đây, trong vụ tranh chấp về lãnh hải giữa Việt Nam và Trung Quốc, khi kiểm tra lại chúng ta cũng thấy thiếu thốn những chứng từ khoa học.

Những ví dụ thực tế trên đây cho thấy sự thiếu thốn bài báo khoa học và công bố quốc tế gây thiệt thòi nghiêm trọng chẳng những cho một sự tiếp nối của nghiên cứu khoa học mà còn gây ảnh hưởng lớn đến một vấn đề mang tầm vóc quốc gia. Do đó, công bố quốc tế có thể hiểu như là một chứng từ khoa học, chứ không phải là một việc làm của giới khoa học “elite”. Thật vậy, bài báo khoa học là một chứng từ khoa học, là tài sản tri thức của một quốc gia. Bởi vì tính chứng từ của bài báo khoa học, công bố quốc tế không phân biệt nước nghèo hay giàu, và không phân biệt khoa học cơ bản hay khoa học ứng dụng.

Lí do 5: Chuẩn mực khách quan

Phần lớn các công trình nghiên cứu ở Việt Nam được kết thúc (hay đánh giá) bằng những buổi lễ khá màu mè gọi là “nghiệm thu” kèm theo báo cáo dài mang tính hành chính hơn là khoa học. Cách làm này rất khác so với cách làm chuẩn của quốc tế. Một chuẩn mực mà cộng đồng khoa học quốc tế và các cơ quan tài trợ cho nghiên cứu đều nhất trí là công trình khoa học phải được đánh giá qua ấn phâm khoa học được công bố trên các tập san khoa học có uy tín, bằng sáng chế, số lượng nghiên cứu đào tạo, và khả năng ứng dụng vào thực tiễn (nếu là công trình nghiên cứu ứng dụng). Cụm từ “tập san khoa học có uy tín” ở đây có nghĩa là những tập san được Viện thông tin khoa học (ISI) công nhận. Ở Việt Nam, tuy có nhiều tập san khoa học, nhưng chưa một tập san nào được ISI công nhận.

Chuẩn mực đánh giá công trình khoa học thiếu tính minh bạch dẫn đến chuẩn mực để xét phong chức danh giáo sư của Việt Nam cũng rất khác với các chuẩn mực quốc tế. Phần lớn những giáo sư ở Việt Nam không có công trình được công bố trên các tập san quốc tế. Nhận thức được vấn đề này và qua nhiều góp ý của các nhà khoa học, Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước mới đề ra những qui định mới, nhưng vẫn chưa hợp lí. Chẳng hạn như theo qui định mới, các ứng viên chức danh giáo sư sẽ được tính điểm bằng bài báo khoa học, và bài báo khoa học đặc biệt xuất sắc được đăng trên các tạp chí hàng đầu quốc tế và Việt Nam được nhiều người trích dẫn có điểm tối đa là 2. Nhưng qui định này vô hình chung đánh đồng chất lượng tập san quốc tế và tập san trong nước mà ai cũng biết là chất lượng không cao. Giáo sư Hoàng Tụy từng nhận xét rằng nếu đánh giá cách khách quan, trên 70% các giáo sư và phó giáo sư Việt Nam không đạt tiêu chuẩn giáo sư.

Thử hỏi nếu một giáo sư Việt Nam ra nước ngoài công tác hay hợp tác khoa học mà lí lịch khoa học không có đến một vài bài báo khoa học được công bố trên các tập san khoa học quốc tế thì đối tác sẽ nghĩ gì ? Chắc chắn họ sẽ nghĩ rằng một thành tích như thế còn chưa xứng đáng là một tiến sĩ hay hậu tiến sĩ, và ấn tượng của họ về khoa học Việt Nam chắc cũng không đẹp.

Do đó, công bố quốc tế phải và nên được xem là một chuẩn mực quan trọng để đánh giá thành quả của một công trình nghiên cứu, và là một tiêu chuẩn tối thiểu để xét phong các chức danh giáo sư và phó giáo sư.

Lí do 6: Sự nghiệp nhà nghiên cứu

Trong hoạt động khoa học, bài báo khoa học là một đơn vị tiền tệ, một viên gạch để xây dựng sự nghiệp khoa học. Ngay từ lúc xin vào học tiến sĩ, một số nơi đã đòi hỏi thí sinh phải có "kinh nghiệm nghiên cứu" thể hiện qua bài báo khoa học. Khi đã được nhận vào chương trình học tiến sĩ, bài báo khoa học là một trong những tiêu chuẩn quan trọng để cấp bằng tiến sĩ. Sau khi đã tốt nghiệp tiến sĩ, bài báo khoa học là một tiêu chuẩn có lợi để cạnh tranh trong việc xin học bổng hậu tiến sĩ.

Sau khi xong chương trình hậu tiến sĩ, bài báo khoa học là một tiêu chuẩn số 1 để cạnh tranh vào các chức danh giảng dạy đại học và viện nghiên cứu. Thật ra, ở một số đại học lớn bên Mĩ, người ta có những qui định cụ thể về con số bài báo khoa học và vị trí tác giả như là một tiêu chuẩn để được đề bạt vào các chức danh giáo sư. Ngoài ra, đối với nhà nghiên cứu và giáo sư, bài báo khoa học còn là một tiêu chuẩn quan trọng để xin tài trợ cho nghiên cứu.

Do đó, cần phải đặt yêu cầu công bố quốc tế lên hàng đầu trong hoạt động khoa học ngay từ giai đoạn nghiên cứu sinh cấp thạc sĩ và tiến sĩ. Thật ra, ở Việt Nam, theo qui định mới về đào tạo tiến sĩ, qui định đề bạt chức danh giáo sư, qui chế cung cấp tài trợ cho nghiên cứu, v.v… cũng đã đưa yêu cầu về công bố quốc tế như là một tiêu chuẩn.

Lí do 7: Cơ hội hợp tác

Nghiên cứu khoa học nói cho cùng là một lĩnh vực hoạt động xuyên quốc gia. Ngày nay, hợp tác trong nghiên cứu khoa học là một chuẩn mực (norm) chứ không phải là một biệt lệ. Ở nước ta, trong điều kiện thiếu thiết bị và hạn chế về phương pháp, việc hợp tác khoa học là một nhu cầu rất lớn. Chỉ có thể qua hợp tác quốc tế, giới khoa học Việt Nam mới có cơ hội hội nhập và nâng cao kĩ năng nghiên cứu cho mình.

Nhưng hợp tác quốc tế không thể xảy ra một cách ngẫu nhiên hay ngẫu hứng. Bất cứ ai làm khoa học cũng đều biết rằng đồng nghiệp tìm với nhau qua những bài báo khoa học trên các diễn đàn khoa học. Các tập san khoa học và hội nghị khoa học quốc tế chính là những diễn đàn lí tưởng để các nhà nghiên cứu tụ tập với nhau và hợp tác làm việc. Như trường hợp mô tả phần đầu của bài viết cho thấy công bố quốc tế dẫn đến sự ghi nhận của đồng nghiệp quốc tế và mở ra một cơ hội hợp tác và phát triển. Do đó, công bố kết quả trên các tập san này là một cách để nâng cao sự hội nhập của khoa học Việt Nam và qua đó củng cố nội lực của giới nghiên cứu Việt Nam.

Lí do 8: Hội nhập quốc tế

Trong một thời gian dài, khoa học Việt Nam cũng nằm trong bối cảnh lịch sử của đất nước, chịu sự cô lập và khép kín. Hệ quả là số lượng công trình khoa học được công bố trên các tập san quốc còn cực kì giới hạn. Khoảng 10 năm trước, tập san Science (một tập san khoa học số 1 trên thế giới) có một loạt bài điểm qua tình hình hoạt động khoa học ở các nước Đông Nam Á, nhưng họ không hề nhắc đến Việt Nam. Ngay cả hai chữ “Việt Nam” cũng không có mặt trong loạt bài đó. Khi người viết bài này phàn nàn thì họ lịch sự cho biết rằng họ đã xem qua danh mục các bài báo khoa học Việt Nam trên các tập san quốc tế, nhưng thấy không có gì để nói. Họ cho rằng khoa học Việt Nam chưa hội nhập quốc tế.

Chỉ sau khi thời mở cửa và nhất là sau thời gian Mĩ bỏ cấm vận, khoa học Việt Nam mới có dịp hội nhập quốc tế, nhưng tốc độ còn quá chậm. Một trong những lí do mà khoa học nước ta chậm hội nhập là thiếu những chuẩn mực mà cộng đồng khoa học quốc tế công nhận. Hiện nay, ở Việt Nam vẫn còn tồn tại những quan điểm như nghiên cứu ứng dụng không cần công bố quốc tế, nước còn nghèo nên tập trung vào những nghiên cứu thực tế chứ không cần đến bài báo khoa học, v.v… Nhưng tất cả những quan điểm này hoặc là không phù hợp với tiêu chuẩn hoạt động khoa học hay mâu thuẫn. Như trình bày trong ví dụ trên, công bố quốc tế không phân biệt nghiên cứu ứng dụng hay nghiên cứu cơ bản, bởi vì nói công bố quốc tế chỉ là một công đoạn sau cùng của bất cứ một công trình nghiên cứu nào.

Lí do 9: Nâng cao sự hiện diện của khoa học Việt Nam

Số lượng và chất lượng ấn phẩm khoa học là một thước đo quan trọng về khả năng khoa học của một nước. Ở phương Tây người ta thường đếm số lượng bài báo khoa học mà các nhà khoa học công bố trên các tập chí khoa học để đo lường và so sánh hiệu suất khoa học giữa các quốc gia.

Trong thời gian gần đây, đã có nhiều phân tích cho thấy số lượng ấn phẩm khoa học của Việt Nam còn quá thấp kém so với các nước trong vùng. Chẳng hạn như trong thời gian 10 năm 1996-2005 số lượng ấn phẩm khoa học của Việt Nam (3456 bài), chỉ bằng 1/5 của Thái Lan, 1/3 của Malaysia , và 1/14 của Singapore. Ngay cả so với Philippines (3901 bài) và Indonesia (4389 bài), số bài báo khoa học từ nước ta vẫn thấp hơn. Tình trạng này vẫn chưa có gì cải tiến trong vài năm gần đây. Trong năm 2008 (tính đến tháng 10), các nhà khoa học Việt Nam chỉ công bố được 910 bài báo khoa học trên 512 tập san khoa học quốc tế (so với 5553 bài của Singapore và 3310 của Thái Lan, hay 2194 bài của Mã Lai).

Có nhiều nguyên nhân cho tình trạng trên, kể cả vấn đề phân phối kinh phí nghiên cứu một cách thích hợp. Không ít các giáo sư hay các "cây đa cây đề" ở Việt Nam còn suy nghĩ rằng nghiên cứu ứng dụng không cần công bố quốc tế, và từ đó việc xét phong giáo sư không dựa vào số lượng ấn phẩm khoa học như là một tiêu chí. Hệ quả của sự sai lệch trong nhận thức và tiêu chí đề bạt là số lượng ấn phẩm khoa học từ Việt Nam còn quá khiêm tốn. Thật vậy, với trên 38.000 giảng viên đại học (trong số này có trên 1100 giáo sư và phó giáo sư, và 5600 tiến sĩ) mà con số ấn phẩm khoa học còn thua cả một quốc gia nhỏ bé như Malaysia ! Nhận thức như thế để thấy rằng việc công bố quốc tế không chỉ đơn thuần là chuyện cá nhân nhà khoa học mà còn là sĩ diện quốc gia.

***

Thật ra, những gì tôi viết trên đây chẳng có gì mới, vì đã được bàn thảo khá nhiều và ở một mức độ nào đó cũng gây nên vài tác động tích cực. Đối với những người làm nghiên cứu khoa học thật sự, họ đã và đang công bố quốc tế, không cần phải nhắc nhở lại những điều quá hiển nhiên. Ngay cả những người phản đối (hay không mặn mà) với việc công bố quốc tế cũng nhận thức được những điều tôi vừa trình bày. Tuy nhiên, có lẽ do những khó khăn hay lí do mang tính cá nhân, nên có những lí lẽ không thuyết phục (nếu không muốn nói là ngụy biện) để gây ảnh hưởng với các cơ quan quản lí khoa học. Thật ra, ngay cả giới quản lí khoa học cũng ghi nhận sự quan trọng của công bố quốc tế, nhưng vì chịu sự chi phối của nhiều “cây đa cây đề” nên đôi khi cũng lúng túng trong quyết định.

Kinh nghiệm của tôi cho thấy có nhiều (rất nhiều) nhà khoa học rất muốn công bố quốc tế vì họ thấy đó là một sự cần thiết cho cá nhân và cho đất nước, nhưng do “lực bất tòng tâm” (như vấn đế tiếng Anh chẳng hạn) nên không thực hiện được. Có lẽ đây chính là những người mà Nhà nước cần tập trung giúp đỡ. Trong thời gian gần đây, đã có nhiều nỗ lực tổ chức những lớp tập huấn về cách viết bài báo khoa học, nhưng những nỗ lực đó vẫn giới hạn trong một vài nơi và cá nhân. Chúng ta cần tiếp cận vấn đề công bố quốc tế một cách có hệ thống cho tất cả các trung tâm nghiên cứu hay trường đại học.

Mỗi năm, nước ta chi ra khoảng 400 triệu USD cho nghiên cứu khoa học. Con số này chiếm khoảng 0,17% GDP toàn quốc. Nhưng thành quả từ sự đầu tư đó vẫn chưa thể đo lường được, do thiếu các chuẩn mực cụ thể. Công bố quốc tế là một thước đo khách quan để đánh giá hiệu quả của đồng tiền mà người dân đã bỏ ra. Đó cũng là một thước đo mà các nước tiên tiến khác đã áp dụng thành công. Nếu chúng ta chưa tạo ra được một thước đo mới, thì cách hay nhất là dựa vào chuẩn mực mà cộng đồng khoa học quốc tế chấp nhận: đó là công bố quốc tế.

Đã làm nghiên cứu khoa học (ngoại trừ trường hợp công chức khoa học), bất kể là khoa học cơ bản hay ứng dụng (thực ra sự phân chia này hoàn toàn không cần thiết), thì phải có “sản phẩm”. Sản phẩm phải thể hiện qua các bài báo khoa học công bố trên các tập san được giới khoa học quốc tế công nhận, qua bằng sáng chế, hay qua thành tựu được đưa vào ứng dụng thực tế. Đó là điều hiển nhiên. Thiết tưởng không cần phải tốn thì giờ bàn cãi về những điều hiển nhiên này.

“Cổ phần” ấn phẩm khoa học trên thế giới đang thay đổi nhanh chóng, với sự hiện diện của các nước đang phát triển đang càng ngày càng gia tăng. Năm 1985, số ấn phẩm khoa học từ Mĩ và Canada chiếm gần 40% tổng số ấn phẩm trên thế giới, nhưng đến năm 1991, con số này giảm xuống còn 28.2%, và năm 1998 lại giảm xuống còn 31.4%. Trong thời gian đó, số ấn phẩm từ các nước như Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, Hồng Kông lại tăng “cổ phần” từ 10% đến 24%. Riêng các nước Đông Âu, kể cả Nga, thì ấn phẩm khoa học không đáng kể và có xu hướng giảm. Số ấn phẩm từ các nước trong vùng Đông Nam Á, kể cả Việt Nam, cũng tăng nhanh trong thời gian 10 năm gần đây, tuy con số tuyệt đối vẫn còn khiêm tốn so với các cường quốc khoa học như Mĩ, Canada và các nước Tây Âu. Do đó, thật là một sự đi ngược trào lưu nếu kêu gọi Việt Nam không nên khuyến khích các nhà khoa học công bố quốc tế. Thật ra, Việt Nam cần phải tăng cường số lượng (và chất lượng) ấn phẩm khoa học trên trường quốc tế, và ngay bây giờ chính là thời điểm lí tưởng để nâng cao sự hiện diện của khoa học Việt Nam lên một nấc thang cao hơn.


NVT

Y đức và nghiên cứu y học

(Bản ngắn đã đăng trên TTCT)

Mới đây, một cuộc điều tra trên 700 bác sĩ cho thấy cứ 3 bác sĩ thì có 2 người “thỉnh thoảng” có hành vi vi phạm y đức, có lẽ vì phần lớn bác sĩ không có ý thức về y đức (chỉ có 9% bác sĩ nhận thức về y đức đúng). Đó là một kết quả rất đáng báo động. Kết quả nghiên cứu trên cũng giải thích tại sao khi 2 năm trước đây khi báo mạng VnExpress mở diễn đàn về y đức, có hàng ngàn người viết thư phản ảnh tình trạng xuống cấp về y đức ở nước ta. Trong một cuộc thăm dò bạn đọc, gần 80% người trả lời cho biết hay bị nhân viên y tế quát mắng. Những tựa đề chua chát như “Ăn mắng” khi vào bệnh viện, Bác sĩ mắng bệnh nhân như mắng con, Tôi rất sợ đi bệnh viện, v.v… liên tục xuất hiện trên mặt báo. Có người thậm chí còn đặt câu hỏi: Nhà thương hay nhà ghét!

Nhưng những vấn đề y đức mà báo chí phản ảnh chủ yếu liên quan đến việc điều trị và tiếp xúc giữa bệnh nhân và bác sĩ trong bệnh viện. Còn một lĩnh vực y đức khác đã được các nước tiên tiến rất quan tâm trong thời gian qua, nhưng hình như chưa được bàn thảo rộng rãi ở trong nước: đó là mối tương tác giữa bác sĩ và bệnh nhân trong các công trình nghiên cứu lâm sàng.

Những tiến bộ ngoạn mục của y học hiện đại, kể cả thuốc mới, không thể có được nếu không có sự tham gia tự nguyện của bệnh nhân trong các nghiên cứu lâm sàng. Trong các nghiên cứu này, bệnh nhân thường được tuyển chọn theo những tiêu chuẩn đã được định sẵn, và họ được theo dõi một thời gian để đánh giá hiệu quả và an toàn của một thuật điều trị. Trong quá trình theo dõi, bệnh nhân phải tốn nhiều thì giờ đến tái khám, hay trong nhiều trường hợp, phải cung cấp các mẫu máu, nước tiểu, hay một mô nào đó trong cơ thể để bác sĩ làm xét nghiệm. Nói cách khác, bệnh nhân tham gia vào những nghiên cứu lâm sàng thường phải hi sinh thời gian và có khi thủ thuật nghiên cứu mang tính xâm phạm.

Do đó, mục tiêu và phương pháp nghiên cứu phải được xem xét cẩn thận sao cho quyền lợi và lợi ích của bệnh nhân nhận ưu tiên số một theo đúng tinh thần của nguyên tắc y khoa là “trước hết, không làm hại” (primum non nocere). Thế nhưng trong thực tế, có khá nhiều nghiên cứu lâm sàng chưa làm đúng với tinh thần này. Có rất nhiều nghiên cứu lâm sàng mà mục tiêu chẳng những không rõ ràng, mà cũng chẳng đem lại lợi ích thiết thực gì cho bệnh nhân và cho cộng đồng. Chẳng hạn như một “sự cố” mới xảy ra ở Anh, các nhà nghiên cứu hấp tấp áp dụng kết quả nghiên cứu từ chuột sang người và hệ quả là hơn 5 bệnh nhân phải mang thương tật suốt đời.

Ở Việt Nam, rải rác đó đây chúng ta đọc hay nghe đến những “thành công bước đầu” trong việc ghép tế bào gốc vùng rìa giác mạc hoặc tế bào gốc cuống rốn cho bệnh nhân hỏng giác mạc. Tuy nhiên, rất khó mà đánh giá những thành công này như thế nào, vì không có chi tiết khoa học, và cũng chưa thấy kết quả nghiên cứu được công bố trên một tập san y khoa có uy tín trên thế giới. Vấn đề đặt ra là ai sẽ chịu trách nhiệm theo dõi và quản lí lâm sàng những bệnh nhân đó. Đây là vấn đề y đức. Chúng ta vẫn chưa quên vào những năm trong thập niên 1980 đã có những “tai nạn” mà những bệnh nhân được ghép giác mạc mắt đầu tiên chịu hậu quả rất nặng nề nhưng chẳng ai chịu trách nhiệm.

Một số công trình mang danh là “nghiên cứu” nhưng thực chất là những cuộc thu thập số liệu theo hợp đồng cho kĩ nghệ dược. Vì nguồn bệnh nhân càng ngày càng hiếm ở các nưóc phương Tây, các công ti dược đa quốc gia có xu hướng tuyển mộ bệnh nhân từ các nước trong khối xã hội chủ nghĩa cũ (Đông Âu), các nước nghèo hơn ở Á châu, những nơi mà qui chế về y đức còn lỏng lẻo. Và, trong quá trình chuyển điạ bàn nghiên cứu như thế, một số bác sĩ ở những nước này trục lợi bằng cách đưa đẩy bệnh nhân của mình làm đối tượng nghiên cứu, nhưng thực chất thì chỉ là những cuộc điều tra thu thập dữ liệu cho các công ti dược. Vấn đề này đã được nêu lên nhiều lần trong các diễn đàn y khoa quốc tế trong mấy năm gần đây, nhưng vẫn còn tiếp diễn.

Trong nhiều trường hợp, ở một số nước Đông Âu và Á châu bệnh nhân được “sử dụng” làm đối tượng nghiên cứu mà họ không hề hay biết, thậm chí còn cảm ơn bác sĩ rối rít! Đây là một vi phạm y đức nghiêm trọng, bởi vì đáng lẽ bệnh nhân phải được giải thích rằng họ được tuyển chọn vào công trình nghiên cứu, và chỉ khi nào họ chấp nhận thì mới được thu thập dữ liệu từ họ. Theo qui ước y đức, ngay cả sau khi tham gia vào công trình nghiên cứu, bệnh nhân có quyền rút ra bất cứ lúc nào mà không cần phải nêu lí do, và bác sĩ không có quyền hỏi tại sao.

Ở Việt Nam, cũng có những trường hợp bệnh nhân được bác sĩ đưa vào các công trình nghiên cứu mà họ không hề hay biết, vì không được giải thích rõ ràng. Có nhiều bệnh nhân thắc mắc tại sao họ bị lấy máu quá nhiều lần, nhưng không dám hỏi, vì nghĩ rằng đó là một qui trình điều trị thông thường! Một điều đáng lo ngại hơn là những chi phí về xét nghiệm trong nghiên cứu lại đùn đẩy cho bệnh nhân! Đây là một điều không thể chấp nhận được, bởi vì khi bệnh nhân tham gia vào nghiên cứu, họ đã hi sinh thời gian và mẫu sinh học cho nhà nghiên cứu, không có lí do gì gây thêm bất tiện và “móc túi” họ.

Một vi phạm y đức khác ít ai để ý là vấn đề cỡ mẫu trong nghiên cứu. Bởi vì nghiên cứu lâm sàng thường dựa vào một nhóm bệnh nhân để đi đến kết luận cho một quần thể lớn hơn. Do đó, số lượng bệnh nhân cần thiết cho nghiên cứu phải được tính toán một cách khoa học, không được thiếu mà cũng không được thừa. Nếu công trình nghiên cứu tuyển số nhiều bệnh nhân nhiều hơn cần thiết thì điều này vi phạm y đức vì làm mất thì giờ của bệnh nhân và có khi gây nguy cơ cho họ. Ngược lại, nếu công trình nghiên cứu tuyển ít bệnh nhân hơn cần thiết thì kết quả sẽ chẳng có ý nghĩa gì (vô dụng) và đây cũng là một vi phạm y đức. Tuy nhiên, trong thực tế nhiều nghiên cứu y học ở nước ta, vấn đề cỡ mẫu chưa được quan tâm đúng mức, không ít bác sĩ hay nhà nghiên cứu tính toán cỡ mẫu một cách tùy tiện, hay có khi tính toán sai phương pháp, thậm chí có khi chẳng tính cỡ mẫu nào cả! Do đó, nhiều kết quả nghiên cứu không có ý nghĩa khoa học, chẳng được áp dụng vào thực tế lâm sàng, và do đó là một vi phạm đến nguyên tắc số 1 của ngành y.

Như nói trên, chẳng riêng gì ở nước ta, ở nước láng giềng Trung Quốc, tình trạng xuống cấp y đức cũng xảy ra. Khoảng 2 năm trước, một cuốn sách về y đức xuất bản ở Trung Quốc làm rúng động lương tâm dư luận một thời gian. Trong sách “Nỗi đau của Trung Quốc”, tác giả là một đại biểu quốc hội bỏ công điều tra và mổ xẻ những vi phạm y đức tràn lan trong giới y bác sĩ Trung Quốc dưới hình thức lừa đảo, bòn rút tiền bệnh nhân, liên minh ma quỉ với các công ti dược để khai thác bệnh nhân “nghiên cứu”, xét nghiệm quá mức (nhằm moi tiền bệnh nhân), hãm hại bệnh nhân, v.v… Nhưng trớ trêu thay, bệnh nhân chẳng biết gì, chỉ nằm nhà chờ chết và tự trách mình nghèo! Cũng trong cuốn sách này, tác giả còn mô tả nhiều bệnh nhân bị đẩy làm đối tượng thí nghiệm khá dã man mà bệnh nhân không hề hay biết, nhưng lại còn cám ơn bác sĩ!

Do đó, ở các nước tiên tiến, các ủy ban y đức rất quan tâm đến y đức trong nghiên cứu. Năm 1964, các hiệp hội y khoa thế giới qui tụ ở Helsinki (Hà Lan), và ra tuyên bố Helsinki 22 điều lệ y đức trong nghiên cứu y học. Những điều lệ này được sửa đổi đôi chút vào năm 1975 ở Nhật, và 1983 ở Ý. Những điều lệ này được xem là kim chỉ nam cho các công trình nghiên cứu y khoa ngày nay.

Năm 1996, Bộ Y tế ban hành 12 điều y đức, nhưng không có qui định cụ thể về y đức trong nghiên cứu lâm sàng hay chưa nhất quán với tinh thần của Tuyên bố Helsinki. Nếu kinh nghiệm từ nước ngoài là một bài học, có lẽ một cách thực tế nhất để nâng cao y đức là huấn luyện và thường xuyên thảo luận về qui ước y đức trong các trường y và bệnh viện. Nhưng để thực hiện việc này, chúng ta cần một qui ước hoàn chỉnh chẳng những trong mối tương tác giữa bệnh nhân và bác sĩ trong điều trị ở bệnh viện, mà còn trong nghiên cứu lâm sàng.



NVT

Bốn năm nữa có 4 đại học đẳng cấp quốc tế

Mới đọc qua bản tin “4 năm tới, Việt Nam sẽ có 4 trường ĐH theo chuẩn quốc tế” tôi tưởng rằng 4 năm nữa VN sẽ có 4 trường đại học đẳng cấp quốc tế (world class university), nhưng đọc kĩ thì thấy là chỉ dự tính thôi.

Điều đáng nói là Bộ GDĐT có vẻ thích mô hình của Đại học Khoa học và Công nghệ Hồng Kông (HKUST). Một quan chức của Bộ nói rằng vào thời điểm mà HKUST thành lập (đầu thập niên 1990) Hồng Kông cũng lưỡng lự như VN hiện nay là nên xây trường mới hay đầu tư vào những trường lâu đời có sẵn. Nhưng tôi nghĩ nhận định này của Bộ sai. Rất sai. Trước khi có trường HKUST, Hồng Kông đã có những đại học danh tiếng, có thể nói là có đẳng cấp quốc tế. Những trường như University of Hong Kong và Chinese University of Hong Kong đã là những học viện có tiếng chẳng những trong vùng mà còn trên trường quốc tế. Họ thu hút khá nhiều giáo sư tài năng từ nước ngoài. Cho đến nay, hai trường này vẫn là hàng top của Hồng Kông và Á châu, còn HKUST thì làm sao sánh được.

Quan chức của Bộ GDĐT nói: “Tuy vậy, chỉ trong vòng 15 năm kể từ ngày khai giảng khoá đầu, trường đã được NewsWeek xếp hạng 60 trên toàn thế giới, cao nhất trong số các trường ĐH ở Hồng Kông.” Nhưng tôi không thấy tài liệu nào nói như thế. Thật ra, chỉ thấy tài liệu nói HKUST xếp vào hạng 24 về công nghệ. Mà, như tôi từng nhận xét, mấy loại xếp hạng này cũng chẳng đáng tin cậy, vì nó rất … tào lao. Ngay cả cách xếp hạng [nổi tiếng] của nhóm Đại học Giao thông Thượng Hải (bên Tàu) khi bị một nhóm nghiên cứu Hà Lan mắng cho là “không biết nghề” thì mới chịu thú nhận là … sai. Nói chung, chẳng có cách xếp hạng nào đáng tin cậy cả. Cứ chạy theo những hạng này là một sai lầm ghê gớm vì làm hao tổn tiền bạc và nhân lực cho những mục tiêu không có thật.

Hồng Kông là một nơi có thể chế chính trị cởi mở, tương đối dân chủ, hệ thống hành chính Tây phương, mà với quyết tâm của cả hệ thống chính trị và tài chính, họ cần đến 15 năm để đưa MỘT đại học lên hàng kha khá (chứ chưa phải là world class như Bộ GDĐT nghĩ đâu); còn Việt Nam ta với cái hệ thống “hành là chính”, cơ chế cồng kềnh, hệ thống giáo dục bệ rạc như hiện nay mà dám nói rằng trong 4 năm sẽ có 4 đại học đẳng cấp quốc tế thì đúng là một giấc mơ quá lãng mạn. Ngày xưa thi sĩ Hàn Mặc Tử rao bán trăng, còn ngày nay mấy người trong Bộ GDĐT đang rao bán hi vọng.

NVT

===
http://vietnamnet.vn/giaoduc/2009/08/862624/

4 năm tới, Việt Nam sẽ có 4 trường ĐH theo chuẩn quốc tế

Dự kiến, 4 trường ĐH đẳng cấp quốc tế sẽ được thành lập ở Việt Nam vào năm 2013. Dưới sự chủ trì của Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Thiện Nhân, hướng xây dựng được đưa ra bàn thảo đầu tháng 8 với sự tham gia của đại diện nhóm tư vấn và các chuyên gia, nhà quản lý giáo dục trong và ngoài nước.

Bộ GD-ĐT cho hay, kinh phí dựng 4 trường bằng vốn vay khoảng 400 triệu USD từ Ngân hàng Thế giới (WB) và Ngân hàng Châu Á (ADB). 4 trường ĐH được xây dựng theo mô hình ĐH công lập, phi lợi nhuận, chất lượng cao tiến tới trình độ quốc tế vào năm 2020; đồng thời, có ít nhất 1 trường có tên trong danh sách 200 trường ĐH hàng đầu thế giới.

Xây mới

Từ kết quả nghiên cứu một số mô hình ĐH đẳng cấp quốc tế của Trung Quốc, bà Trần Thị Hà - Vụ trưởng Vụ Giáo dục ĐH (Bộ GD-ĐT) cho rằng, việc xây dựng trường ĐH đẳng cấp quốc tế là một nhu cầu xuất phát từ sự cạnh tranh khốc liệt về GDĐH trong và ngoài nước. Đồng thời, nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu, tập trung cho dự phát triển nền kinh tế tri thức...

Do đó, trường ĐH đẳng cấp quốc tế trước hết phải là trường ĐH đa ngành và là ĐH nghiên cứu, biết tập trung trọng điểm, hướng nhu cầu xã hội. Xây dựng được đội ngũ giảng viên xuất sắc tạo động lực phát triển. Bên cạnh đó, phải có chính sách thu hút nhân tài hợp lý, có bước đi thích hợp.
Kinh nghiệm nêu trên đã được ĐH Khoa học và công nghệ Hồng Kông (HKUST) áp dụng hiệu quả - bà Hà dẫn dụ. Tại thời điểm chuẩn bị thành lập HKUST, chính quyền Hồng Kông cũng đang ở trong tình trạng phải chọn lựa như Việt Nam hiện nay: Hoặc là đầu tư vào trường ĐH danh tiếng đã có lịch sử lâu dài như ĐH Bách khoa Hồng Kông, ĐH Hồng Kông - hoặc mở một trường với mô hình hoàn toàn mới như HKUST.

Những thành công trong 15 năm của HKUST càng chứng tỏ quyết định xây mới và bước đi của trường là chính xác. Đến nay, HKUST chỉ có 6.000 sinh viên với diện tích khoảng 60ha. So về quy mô nhỏ hơn 5 lần và diện tích nhỏ hơn 10 lần so với hai ĐHQG của Việt Nam - bà Hà cho biết.
Tuy vậy, chỉ trong vòng 15 năm kể từ ngày khai giảng khoá đầu, trường đã được NewsWeek xếp hạng 60 trên toàn thế giới, cao nhất trong số các trường ĐH ở Hồng Kông.

Điều này cho thấy, truyền thống và bề dày lịch sử của nhà trường có vai trò rất quan trọng nhưng không có tính chất quyết định. Yếu tố quyết định vẫn là đội ngũ cán bộ - bà Hà chia sẻ.

Đại diện nhóm tư vấn quốc tế trong dự án hỗ trợ kỹ thuật nêu kinh nghiệm, tất cả những trường ĐH lớn trên thế giới đều là các trường tự quản.

Khoảng một nửa số sinh viên là học viên sau ĐH, từ 10-30% sinh viên là người nước ngoài. Đồng thời, có mối liên hệ chặt chẽ với các doanh nghiệp và nghề nghiệp. Và kinh phí của Nhà nước đầu tư cho 1 sinh viên từ 20.000USD - 50.000USD/năm...

Ba yếu tố then chốt tạo nên thành công của các trường ĐH đẳng cấp thế giới: tập trung nhân tài, nguồn kinh phí dồi dào, quản trị và quản lý phù hợp - đại diện nhóm tư vấn cho hay.

Nguyên Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Bành Tiến Long phân tích, không có công thức chung và diệu kế để "tạo ra" trường ĐH đẳng cấp quốc tế. Mỗi quốc gia phải chọn cách đi phù hợp những thế mạnh và nguồn lực của mình...

Tuy nhiên, việc nhận thức được thực tế và sự nhạy cảm đối với lợi ích xã hội cũng là một nhân tố cần giải bài toán này. Sự mờ nhạt trong khái niệm về trường ĐH đẳng cấp quốc tế, cùng với việc không thể đo được chất lượng và nhiệm vụ nặng nề của GD ĐH - khiến cho "cuộc chiến" càng trở nên khó khăn với các quốc gia đang phát triển và kém phát triển.
Tăng chi, chấp nhận "nhập khẩu"...

Sau khi nghe ý kiến từ phía các nhà quản lý và chuyên gia, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân gợi mở: 4 mô hình mới được xây dựng tương lai sẽ là 4 "lò" đào tạo tiến sĩ theo chuẩn quốc tế; Cùng với việc tạo ra và nhân rộng những tri thức mới, công nghệ mới - đây sẽ là mô hình sử dụng nguồn nhân lực hiệu quả, có cơ cấu tổ chức, quản lý hiệu quả và phát triển bền vững...

Kế hoạch triển khai đến nay đã đạt một số kết quả:

- Thành lập Trường ĐH Việt Đức trên khu đất 20ha trong khuôn viên ĐHQG TP.HCM. Trường đã tuyển sinh khoá 1 và đang chuẩn bị tuyển sinh khoá 2.

- Trường ĐH Khoa học Công nghệ đã được Thủ tướng Chính phủ đồng ý thành lập về nguyên tắc với diện tích 60ha trong Công viên khoa học Hòa Lạc.

- Xác định phương thức xây dựng đề án tiền khả thi 2 mô hình trường ĐH mới tại Đà Nẵng và ĐH tại Cần Thơ.

Xa hơn, 4 mô hình ĐH đẳng cấp quốc tế sẽ góp phần tạo hình ảnh quốc gia về đào tạo và hợp tác với nước ngoài - người đứng đầu ngành GD mong đợi.

Để tạo nên 4 "máy cái" nhân rộng các tri thức mới, theo ông Nhân: khâu tuyển dụng "đầu vào" phải khắt khe, sinh viên (SV) nhập học phải là những SV xuất sắc. Giảng viên và các nhà quản lý cũng phải xuất sắc có thể được tuyển dụng trong nước và nước ngoài. Đồng thời, nguồn lực tài chính được huy động từ các nguồn Nhà nước đầu tư, doanh nghiệp và các nhà tài trợ... đảm bảo chi trên đầu SV trên dưới 10.000 USD/năm.

Với những giảng viên và nhà quản lý xuất sắc sẽ được hưởng thu nhập phù hợp, nhưng áp lực lớn và có cơ chế đào thải khi không đáp ứng yêu cầu. Sẽ có cơ chế thu hút giảng viên là những giáo sư, tiến sĩ người nước ngoài - ông Nhân nói.

Song song với việc Chính phủ giám sát chất lượng, sẽ có một tổ chức lo vận động kinh phí từ các tổ chức, doanh nghiệp phục vụ cho giáo dục. Đồng thời, sẽ có 1 tổ chức chuyên trách để kết nối nhà trường với doanh nghiệp...

Giải pháp để thúc đẩy 4 mô hình mới phát triển hiệu quả, ngoài kinh phí, con người tuyển chọn khắt khe - theo Phó Thủ tưởng trước mắt, có thể "nhập khẩu" chương trình đào tạo của các trường ĐH hàng đầu thế giới, "nhập khẩu" phương pháp và công nghệ quản lý của các chuyên gia nước ngoài.

Từ đó khai thác những điểm mạnh phù hợp với văn hoá trong nước để thúc đẩy hiệu quả. Tuy nhiên, cũng phải có thoả thuận, điều kiện đảm bảo chất lượng "đầu ra" - không để tình trạng các trường ĐH Việt Nam hiện nay cứ nhận tiền Nhà nước nhưng không có cam kết - ông Nhân nhấn mạnh.

Bốn quốc gia sẽ là đối tác chiến lược trong việc thúc đẩy xây dựng 4 trường ĐH theo mô hình chuẩn mực quốc tế gồm Đức, Pháp, Mỹ và Nhật. Trong đó, 2 quốc gia Đức, Pháp đã là đối tác chính thức.

Khó thành công nếu thiếu "cộng hưởng"

Theo Phó GĐ ĐHQG TP.HCM Lê Quang Minh, 4 trường được xây dựng theo một mẫu trường ĐH mới để thúc đẩy và tạo động lực cho đổi mới hệ thống giáo dục ĐH Việt Nam, có khả năng giải quyết các vấn đề lý thuyết và thực tế. Đồng thời, góp phần nâng cao trình độ giáo dục ĐH Việt Nam lên tầm tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, lại chưa nhận được sự đồng thuận...

Do vậy, cần có sự lý giải để dư luận xã hội hiểu mục tiêu không phải xây 4 "ốc đảo", 4 vương quốc rời hẳn hệ thống các trường đang tồn tại và phát triển - ông Minh nói. Điều cần lý giải, tương lai 4 mô hình mới sẽ có đóng góp tích cực về đội ngũ tri thức chất lượng cao cho các trường còn lại.

Cùng với việc "thí điểm" một số mô hình mới, Chính phủ và Bộ GD-ĐT cần có chính sách để việc tuyển chọn đầu vào và sử dụng đầu ra hiệu quả. Tạo điều kiện để SV ra trường được ưu tiên công tác ở các trường ĐH trong nước, từ đó các trường nhận thấy được hưởng lợi để không tạo cảm giác về sự cạnh tranh không bình đẳng giữa 4 trường và các trường ĐH còn lại.

Cũng cần có cơ chế để nhân rộng mô hình trường ĐH đẳng cấp quốc tế với các trường đủ mạnh - ông Minh đề xuất.

Với những gợi mở từ người đứng đầu ngành GD - ông Minh băn khoăn, nếu đặt vấn đề chỉ tuyển "đầu vào" là những SV có điểm thi đạt 30 thì e không khả thi. Nên đặt ngưỡng, ví như điểm đạt trong khoảng từ 20 - 30, sau đó có thêm các đợt kiểm tra sẽ hợp lý?

Những ý tưởng đưa ra đều là những giải pháp đột phá, nhưng rất mới trong hệ thống - nếu chỉ mình Bộ GD-ĐT sẽ không giải quyết hết được. Vậy, liệu các bộ, ngành khác đã vào cuộc đến đâu? Khi tung những nội dung mới ra mà các bộ, ngành khác chưa sẵn sàng thì sẽ mất nhiều thời gian cho việc... sẵn sàng.

Còn GS Phạm Duy Hiển kiến nghị 2 nội dung, việc dựng trường ĐH đẳng cấp quốc tế cần "kéo" Bộ Khoa học Công nghệ vào cuộc để "lấp" đi một số lĩnh vực khoa học cần được đẩy mạnh. Cùng với đó, cần có xem xét trên bình diện rộng để không có sự trùng lặp các hướng nghiên cứu giữa 4 trường, trong khi còn rất nhiều hướng nghiên cứu còn bỏ trống.

Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế (Bộ GD-ĐT) Nguyễn Ngọc Hùng nêu thách thức, hiện các nước đang thay đổi chính sách nhập cư để thu hút nhân tài nên SV giỏi của Việt Nam rất thờ ơ với học bổng của Chính phủ Việt Nam. Do đó, làm sao để kéo được nhân tài cho 4 trường và môi trường làm việc cho các nhân tài được đào tạo từ 4 trường là vấn đề Chính phủ Việt Nam cũng cần có chính sách phù hợp.

Chủ Nhật, 9 tháng 8, 2009

Nhìn lại dịch cúm heo 1976

Hôm cuối tuần có thì giờ đọc một bài nghiên cứu về dịch cúm heo xảy ra ở Fort Dix vào năm 1976, nên có hứng viết vài hàng về dịch cúm A/H1N1 hiện nay. Hiện nay, thế giới đang trải qua một đại dịch có tên là A(H1N1), và giới khoa học đang bận rộn xây dựng lại diễn biến (hay “kịch bản”) của đại dịch đã được xảy ra như thế nào. Nhưng đây không phải là dịch cúm heo lần đầu trong lịch sử con người. Năm 1976, một dịch cúm heo xảy ra ở Fort Dix (bang New Jersey) làm cho hàng ngàn người bị nhiễm, 13 người nhập viện, và 1 người chết. Thời đó, giới chức y tế Mĩ phản ứng quyết liệt: cho tiêm vaccine toàn dân, nhưng đến khi 44 triệu người được tiêm vaccine thì cuộc vận động phải ngưng, vì người ta biết rằng dịch cúm không xảy ra ngoài Fort Dix; và tiêm vaccine cũng gây ra vài ca biến chứng nguy hiểm.

Chính nhờ vào dữ liệu được thu thập cẩn thận trong dịch cúm heo 1976, mà các nhà dịch tễ học đã có nhiều kinh nghiệm về mô phỏng và phân tích sự lây lan của dịch cúm. Năm 2007, giáo sư Lessler và đồng nghiệp công bố một bài báo trên tập san Journal of the Royal Society Interface tìm hiểu qui luật lây lan của virus H1N1 vào năm 1976. tại sao cúm heo H1N1 vào năm 1976 chỉ kéo dài 1 tháng mà cúm A(H1N1) hiện nay lan tràn khắp thế giới từ tháng 4 vừa qua?

Đây là kịch bản của Lessler: Ngày 4/2/ 1976, một người lính chết ở doanh trại Fort Dix vì bệnh phổi. Khi xét nghiệm, người ta phát hiện anh ta bị nhiễm virus cúm H1N1 giống như virus lan truyền trong heo. Do đó, theo qui ước đặt tên virus cúm, virus này được đặt tên là A/New Jersey/76. Từ đó, virus cúm H1N1 được giới dịch tễ học chú ý, bởi vì không thấy chúng lan truyền ở con người từ đại dịch 1957-1958. Điều tra dịch tễ học sau đó cho thấy virus A/New Jersey/76 lan truyền rộng rãi ở những quân nhân tại Fort Dix từ 5/1 đến 14/2, và đến lúc đó thì virus biến mất! (Lessler et al., J. R. Soc. Interface).

Fort Dix là một trung tâm huấn luyện quân sự, được tổ chức thành 7 đại đội. Một đại đội có 4 tiểu đội, với 50 tân binh. Các tiểu đội này rất ít tiếp xúc nhau. Các tân binh mới trở về từ mùa nghỉ hè thì bị dịch cúm hoành hành. Nhưng dịch chỉ diễn ra đúng 33 ngày sau ca đầu tiên phát hiện. Cư dân ngoài vùng Fort Dix không có ai bị nhiễm. Tại sao?

Dựa vào dữ liệu năm 1976 và các phương pháp phân tích dịch tễ học hiện đại, Lessler và đồng nghiệp ước tính 2 thông sớ cơ bản: chỉ số tái sản sinh R0, và thời gian. R0 là số ca bệnh mới (trung bình) khi một ca bệnh sống chung trong một cộng đồng mà trước đó không hề bị nhiễm. Bởi vì những tân binh đều còn trẻ với sức đề kháng cao, do đó đây là quần thể lí tưởng để ước tính R0. Còn thông số kia, khoản thời gian liên tiếp (serial interval), là thời gian trung bình từ một ca bệnh lây lan sang một ca bệnh khác.

Ngay cả một virus trong một quần thể có trị số R0 trên 1.0 chỉ có thể lan truyền trong một cộng đồng khép kín. Một virus nhiễm các tân binh trong một cộng đồng tương đối cô lập (như một doanh trại quân đội) có thể sẽ không có thêm kí chủ để “nương tựa”. Nếu các quân nhân bị nhiễm không tiếp xúc với đồng nghiệp hay người ngoài thì chắc chắn virus sẽ khó có đất sống, và dịch cúm phải chấm dứt.

Nhưng dĩ nhiên cộng đồng quân nhân đâu phải hoàn toàn cô lập. Họ cũng có tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Vậy thì câu hỏi đặt ra là tại sao virus không lây lan ra ngoài Fort Dix? Câu trả lời mà Lessler và đồng nghiệp cung cấp trong bài báo là virus này không mấy mạnh mẽ. Họ ước tính trị số R0 chỉ 1.2 (và khoảng tin cậy 95% từ 1.1 đến 1.4), tức là còn thấp hơn trị số R0 trong các dịch cúm mùa (khoảng 2.0 đến 3.0). Thông số thứ 2 mà họ ước tính (khoảng cách thời gian giữa 2 ca) cũng khá ngắn: chỉ 1.9 ngày.

OK, bây giờ chúng ta đi vào “chi tiết kĩ thuật” một chút. Cứ mỗi tiếp xúc giữa cá nhân trong một cộng đồng, có một xác suất virus sẽ lây nhiễm. Nếu ca bệnh tiếp xúc một cá nhân có khả năng miễn nhiễm, xác suất này đương nhiên là 0; và, trong trường hợp này R0 sẽ giảm, và nếu có nhiều người trong cộng đồng có khả năng miễn nhiễm thì R0 sẽ giảm <1.0. Vậy thì câu hỏi đặt ra là cần bao nhiêu phần trăm cá nhân trong cộng đồng chúng ta cần để có một hiệu ứng miễn nhiễm? Câu trả lời tùy thuộc vào R0. Nếu R0 = 1.2, chúng ta cần 17% ; nếu R0 = 1.1 chúng ta chỉ cần 9%.

Virus A/New Jersey/76 và sự “thất bại” của nó trong việc lan truyền cho chúng ta một hi vọng là với hệ thống báo động tốt và kiểm soát dịch bệnh, các dịch cúm trong tương lai sẽ được khống chế tốt hơn.

Riêng đối với cúm A(H1N1) lần này thì trị số R0 có vẻ tương đương với cúm mùa, và việc kiểm soát rất khó, nhưng hệ thống báo dộng đóng vai trò quan trọng ở đây. Sự thật là virus cúm heo H1N1 lần này lan truyền không mấy hiệu quả, và điều này cho thấy virus cúm heo có lẽ đã “lưu hành” khá lâu trong một quần thể kín với nhiều tiếp xúc, như hãng xưởng hay nông tại, cho đến khi chúng có khả năng đột nhiên tăng chỉ số R0 và lan truyền ở con người. Tuy nhiên, đó chỉ là một suy luận, vì trong thực tế, chúng ta chưa biết chính xác câu trả lời là virus A(H1N1) hiện nay đến từ đâu.

NVT

Luận bàn về thói hám danh và vĩ cuồng của trí thức VN

Vương Trí Nhàn tiếp tục lí giải về căn bệnh háo danh và vĩ cường của giới gọi là “trí thức” ở Việt Nam. Đọc rất thích, nhưng tôi thấy hụt hẫng khi anh ta đi đến 2 kết luận:

“Một là hãy thông cảm với những người trong cuộc. Không phải người trí thức Việt Nam sinh ra đã ham chức danh như chúng ta thấy. Hoàn cảnh đẩy họ đến chỗ phải làm vậy.

Hai là, bệnh khó chữa lắm. Vì nó chỉ là một biểu hiện của tình trạng tha hóa trí thức cần được nghiên cứu trên quy mô rộng hơn và có tầm khái quát hơn.”

Tưởng gì, anh ta nói cần nghiên cứu thêm. Cái câu này nghe quen quen trong các nghiên cứu y khoa, nhưng nay thì nó đã chết theo cùng năm tháng rồi. Tuy nhiên, nó (cái câu đó) lại xuất hiện trong bài lí giải của VTN. Ai mà chẳng biết mổ xẻ một câu hỏi, một vấn đề lớn như vậy phải cần đến những nghiên cứu nghiêm chỉnh, có hệ thống, và có phương pháp. Tôi có cảm giác anh này đưa vấn đề quá lớn lên bàn mổ, nhưng giữa đường đuối sức nên kết luận như vậy. :-)

Tôi thắc mắc cái câu kết số 1 (do hoàn cảnh đẩy đưa người có học ở VN trở nên hám danh), nhưng hoàn cảnh gì? Phải nói cụ thể chứ. Nếu tại chế độ phong kiến thời xưa, hay XHCN thời nay thì cứ nói thẳng cho rồi. Thật ra, tôi thấy thời trước 1975 (VNCH) giới trí thức VN cũng hám danh và vô cùng khệnh khạng (nhất là giới văn nghệ sĩ di cư từ Bắc). Tôi lại không nghĩ tại hoàn cảnh, mà tại cái mặc cảm tự ti của người Việt mình (hay người Á châu). Cái mặc cảm này xuất phát từ việc mình cũng có học, có bằng cấp, nhưng nhìn lên thì chẳng bằng ai mà nhìn xuống thì thấy mình quá cao siêu, nhìn sang nước ngoài thì thấy mình chỉ nhỏ như hạt cát. Từ chỗ thấy mình thấp hèn, insecure (bất an), thiếu tự tin (lack of confidence), nên phải tìm một chỗ dựa, và chỗ dựa đó là danh hảo.

NVT

PS. Nói đến danh xưng, xin mời các bạn xem qua chương trình hội nghị y khoa rất “hoành tráng” với đầy đủ danh xưng đây. Nhưng xin nhìn vào chương trình xem có nhiêu nghiên cứu liệt vào hàng “original research” thì chúng ta sẽ thấy bài của Vương Trí Nhàn mang tính thời sự như thế nào.


http://www.tuanvietnam.net/vn/thongtindachieu/7655/index.aspx

"Giới thông thái chân đất"

Công cuộc phát triển đòi hỏi đất nước phải có một tầng lớp trí thức ngang tầm quốc tế và khu vực, ở đó không thể có sự nửa vời, sự tự hạ thấp tiêu chuẩn để làm dáng.

Nhiều năm qua chúng ta hay nói một cách hồn nhiên rằng dân ta ham học và trong quá khứ ta có một nền giáo dục chẳng kém gì những nước khác. Bản thân tôi ban đầu cũng tin như thế, sau thực tế ngày càng thấy phải nói ngược lại.

Trong một cuốn sách lịch sử giáo dục (1) tôi thấy người ta chỉ ra rằng thật ra giáo dục là chuyện xài sang. Chỉ những đất nước giàu có mới có tiền của để chi cho giáo dục theo đúng nghĩa của nó. Khi nền kinh tế ở trình độ tiểu nông manh mún, thậm chí trình độ hái lượm, con người có mỗi việc kiếm ăn đã không làm nổi, ta chỉ có thứ giáo dục ở dạng đơn sơ, kém cỏi.

Ta hay khoe, người dân quê nào ở nông thôn VN cũng sẵn sàng bớt ăn bớt mặc cho con đến học ở các thầy đồ lấy “năm ba chữ thánh hiền”.

Nhưng hãy nhìn kỹ vào những lớp học đó. Trường sở sơ sài. Sách vở tài liệu không có, đến bữa cơm chắc bụng cho người dạy cũng không có nốt (nhiều truyện tiếu lâm toàn ghi lại chuyện thầy đồ ăn vụng) - thử hỏi sau mấy năm theo học các ông thầy ấy, phần lớn các cậu học trò nhà quê học được gì ? Biết dăm ba chữ để đủ đọc tên mình trong khế ước văn tự thế thôi chứ làm sao hơn được?!
Sự ham học có tính cá nhân nông nổi đó chưa bao giờ kết hợp với nỗ lực của cộng đồng để xây dựng nổi cơ chế giáo dục hợp lý và một nội dung giáo dục lâu dài, có triển vọng.

Đọc lịch sử, đời Lê, sau khi đánh xong giặc Minh, nhà vua lo cầu hiền tài để chọn quan lại ở cấp cơ sở. Chọn như thế nào? Chẳng qua chỉ một số người tinh nhanh đủ chữ ghi chép và … biết làm tính (2).

Theo như cách nói của một tác giả trên tạp chí Văn hóa nghệ thuật thì một nét đặc thù của trí thức VN trong lịch sử là tính cách lưỡng phân. Ông Nguyễn An Ninh, tác giả bài này giải thích: Họ vừa là kẻ sĩ vừa là nông dân. Khi không thể sống bằng chữ tức bằng nghề của mình, nhu cầu trí tuệ của họ bị giảm thiểu. Những xung lực cho hoạt động trí tuệ ở họ thường xuyên bị kìm hãm. Gặp hoàn cảnh khó khăn , họ dễ bị hư hỏng.

Tính cách lưỡng phân ấy là cả một ám ảnh, như ám ảnh về quê hương nghèo đói. Ta hiểu tại sao một số trí thức tỉnh táo khi đã thành đạt, vẫn không thể quên nguồn gốc của mình, cái nơi mà từ đó mình đi tới. Đây là lời dặn của Nguyễn Khuyến cho con cái:

Các con nối nghiệp cha nên biết
Nghiên bút đừng quên đậu lúa cà

Thế sao những người nông dân một nửa này vẫn miệt mài đèn sách để có ngày lều chõng khoa cử thì sao? Bởi việc nhồi vào óc một ít kiến thức cổ lỗ sở dĩ thu hút được toàn bộ tinh hoa nghị lực của nhiều người vì đó là con đường ngắn nhất để được gia nhập vào hàng ngũ quan chức.

Không có sản phẩm trí thức

Tự hào về nền giáo dục xưa, ta hay đưa dẫn chứng là trong lịch sử, các triều đại đã mở nhiều khoa thi và đã lấy được nhiều tiến sĩ, các bia tiến sĩ đó còn được đặt trong Văn miếu. Nhưng thử hỏi trước tác của các vị tiến sĩ đó là gì hay chỉ là những bài văn mòn sáo sau khi dâng vua thì chính người viết ra nó cũng quên nó luôn.

Có thể chứng minh sự kém cỏi của nền giáo dục cổ ở một khía cạnh khác. Nhân xem xét danh sách các tác gia văn học VN bằng con mắt thống kê, người ta đã phát hiện ra một nghịch lý vui vui.

Đó là nhiều nhà văn nhà thơ VN thời trước nổi tiếng mà không có tác phẩm (đây là nói những tác phẩm dày dặn, có chất lượng đáng kể, được truyền tụng về sau và trở thành một đối tượng mô tả bắt buộc của các bộ từ điển).

Từ điển văn học Việt Nam do Lại Nguyên Ân biên soạn với sư cộng tác của Bùi Văn Trọng Cường có 276 mục dành cho tác giả trong khi chỉ có 132 mục dành cho tác phẩm. Từ thế kỷ thứ X đến hết thế kỷ XIX, tính đổ đồng, mỗi thế kỷ chỉ có 7 tác phẩm; riêng thế kỷ XIX khá hơn, có tới 68 tác phẩm được ghi vào từ điển, nhưng số tác giả cũng lớn hơn, tới 78 người.

Cái hiện tượng cây không trái này (đúng hơn, có thể là toàn những trái chua trái héo, không cần cho ai, đời sau không ai buồn nhớ) càng thấy rõ khi nhìn vào hàng ngũ các ông trạng - chúng tôi muốn nói tới trạng chính thống chứ không phải trạng theo nghĩa dân gian.

Theo Vũ Ngọc Khánh trong cuốn Kho tàng về các ông trạng VN thì không kể triều Nguyễn không lấy trạng nguyên, các triều đại Lý Trần Lê có tới 47 người được phong trạng. Nhưng phần lớn họ không có tên trong danh sách các tác gia nổi tiếng ở nước ta.

Ngược lại, xét chung các nhà sáng tác thơ văn, từ Nguyễn Du tới Nguyễn Đình Chiểu, từ Nguyễn Gia Thiều Phạm Thái cho tới Tú Xương, nhiều người không thuộc loại đỗ đạt cao. Riêng về biên khảo, một học giả thực thụ như Phan Huy Chú, tác giả của bộ sách đồ sộ, mang tính cách tổng kết lớn, một thứ bách khoa toàn thư là Lịch triều hiến chương loại chí, chỉ đỗ đến tú tài.

Câu chuyện người đỗ không giỏi và người giỏi không đỗ không chỉ tố cáo sự kém cỏi của hệ thống giáo dục mà còn cho thấy một phần thực chất con người của nhiều ông trạng. Họ chính là điển hình của loại học trò thuộc bài, chỉ biết tầm chương trích cú rồi làm theo những khuôn mẫu sẵn có, nói chung là những cá tính tầm thường, không có quan hệ gì tới tư duy độc lập và sự sáng tạo.

Ta đã có tầng lớp tri thức đúng nghĩa?

Bước vào giai đoạn hội nhập, gần đây, những cuộc bàn cãi xuất hiện đều đều trên mặt báo ở ta cho thấy vấn đề về giới trí thức đang là mối quan tâm chung của xã hội. Điều này có lý do chính đáng của nó. Sự trì trệ kéo dài hàng ngàn năm mà đến nay ta vẫn lĩnh đủ có một nguyên nhân sâu xa: cộng đồng không hình thành nổi bộ phận tinh hoa (elite) của mình. Một chủ nghĩa bình quân tối đa đã níu kéo tất cả lại.

Tôi muốn đặt vấn đề: liệu trong thực tế lịch sử chúng ta đã có một tầng lớp trí thức đúng nghĩa chưa? Nếu tạm thời chấp nhận là có một tầng lớp như vậy, thì quá trình hình thành của họ có đặc điểm gì? Tại sao họ dễ bị làm hỏng đến vậy? Trước 1945, những Phan Kế Bính, Phạm Quỳnh, Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Huyên, các tác giả có bài thường xuyên trên Tri Tân Thanh Nghị… đã có ý kiến về vấn đề này mà chưa ai có dịp tổng kết.

Tuy không nói ra, nhưng có vẻ như với nhiều người, kẻ sĩ Việt Nam chỉ là một loại trí thức chân đất. Một số nhà nghiên cứu gần đây đôi khi còn đi tới những khái quát cực đoan hơn. Trong một bài viết mang tên Tâm lý dân tộc với cuộc Cải cách hành chính hiện nay nhà xã hội học lão thành Đỗ Thái Đồng cho rằng xã hội cổ truyền VN thiếu ba chỗ dựa cơ bản:

- Không có giai cấp quý tộc trong khi có đông đảo đám quan lại nhất thời.

- Không có tầng lớp trí thức để có được các trào lưu học thuật tư tưởng riêng. Rất hiếm thấy cái cốt cách như Lý Bạch“ Thiên tử hô lai bất thượng thuyền”. Học để làm quan, tuyệt đại đa số kẻ sĩ đều mộng làm quan hơn là giữ vai trò thầy đồ… áo rách.

- Không có lớp doanh nhân tung hoành về thương mại hay công nghệ trong nước cũng như ngoài nước.

Trong ba đặc điểm tôi cho là được nêu ra chính xác này, cái thứ hai liên quan đến chủ đề trí thức chúng ta đang nói.

Thói háo danh chẳng qua chỉ là dấu hiệu của một tầng lớp trí thức non yếu. Còn mọi thái độ dễ dãi với họ chiều nịnh họ mà không dám yêu cầu cao ở họ cuối cùng chỉ đẩy họ sa đà mãi trong tình trạng bần cùng về trí tuệ và nẩy sinh những căn bệnh mới.

Cũng nên nói thêm, sự dễ dãi này ban đầu có vẻ là một thiện ý hoặc nói như chữ nghĩa thời nay – một sự chia sẻ, nó bắt đầu từ một cảm nhận chung về sức ép của hoàn cảnh.

Nó là cách nghĩ từng ngự trị trong xã hội một thời gian dài. Đất nước lo gồng mình lên để chống ngoại xâm. Cuộc sống khó khăn đến nỗi, khi nghĩ về nhau người ta chỉ thấy những điều tốt đẹp, cốt sao giữ lấy cho nhau niềm tự tin, rồi động viên nhau hợp sức trong việc chống trọi lại các thế lực thù địch từ bên ngoài tới. Tức nó là sản phẩm của những thời đại mà mọi nỗ lực của con người là lo tồn tại, tới mức có thể bảo nền văn hóa của chúng ta là văn hóa để tồn tại.

Còn nếu như đặt vấn đề tồn tại chỉ là chuyện tối thiểu, cái đáng lo hơn, như hôm nay, là chuyện phát triển, chúng ta sẽ phải nghĩ khác về quá khứ và luôn thể nhìn lại khác đi về nhau.

Nay là lúc mọi sự vuốt ve nhau dễ dãi, là không đủ nữa. Công cuộc phát triển đòi hỏi đất nước phải có một tầng lớp trí thức ngang tầm quốc tế và khu vực, ở đó không thể có sự nửa vời, sự tự hạ thấp tiêu chuẩn để làm dáng. • Vương Trí Nhàn Ghi chú:(1) Roger Gal Lịch sử giáo dục, bản dịch Lê Thanh Hoàng Dân-- Trần Hữu Đức. NXB Trẻ-- Sài gòn, 1971

(2) Dẫn theo Đại Việt sử ký toàn thư của nhà xuất bản Khoa học xã hội 1983, tập II tr 296 (5) Nguyễn An Ninh Tính chất lưỡng phân, một nét đặc thù của trí thức Việt nam trong lịch sử Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật 1998, số 1

Chú ý xin đừng lầm với Nguyễn An Ninh (1900-1943), nhà hoạt động xã hội ở đầu thế kỷ XX. Có điều thú vị là nhà trí thức lớn Nguyễn An Ninh trước đây cũng từng nhận xét xứ ta là nơi mà “chỉ với một chút xíu khoa học” người ta đã có thể tự coi mình là nhà thông thái, tương tự như “với hai xu trong túi, người ta đã trở thành những nhà giàu.” Khi lưu ý tình trạng nhiều người “cảm thấy thỏa mãn vừa lòng khi chui rúc trong một túp lều”, hình như ông muốn nói rằng tình trạng thiếu khát vọng và ý chí đã kìm giữ mãi chúng ta trong khung cảnh lạc hậu.

http://www.tuanvietnam.net/vn/thongtindachieu/7677/index.aspx

Truy tìm căn nguyên thói “háo danh” của trí thức

Không phải người trí thức Việt Nam sinh ra đã ham chức danh như chúng ta thấy. Hoàn cảnh đẩy họ đến chỗ phải làm vậy.

Phần 1: Thói háo danh và vĩ cuồng của trí thức
Phần 2: "Giới thông thái chân đất"

Nói như Cao Xuân Hạo, thói háo danh “có thể tăng rất nhanh theo cấp số nhân và biến thành một bệnh dịch quật ngã hàng triệu người”

Ngành văn chương mà tôi làm việc thuộc khu vực mà người ta hay nhấn mạnh tính bản địa.

Ngoài cái háo danh kiểu vô thức tập thể - cho rằng văn chương nước mình chẳng kém gì thế giới, rồi thường xuyên mũ cao áo dài vái lậy, tôn vinh nhau ngay trong sinh hoạt hàng ngày, còn một lối chạy theo danh vị kín đáo hơn, nhưng chắc chắn hơn. Đó là lo mấy câu thơ của mình được đưa vào sách giáo khoa cho học sinh cả nước học, lo tên tuổi của mình thường xuyên được nhắc nhở trên các phương tiện thông tin đại chúng, nịnh nọt những người được phân công viết văn học sử đương đại, cốt họ dành cho mình vài dòng trong sách và nhờ thế mình sẽ ở lại với vĩnh viễn.

Sự phát triển tính hiếu danh”vượt xa kế hoạch” như thế này có những liên quan đến tình trạng của giới trí thức đương thời cũng như quan niệm của xã hội về họ.

Hệ quả của một thời chiến tranh

Xã hội sau 1945, căn bản là xã hội của tư duy công nông nghĩa là của những người hành động. Mọi sự tính toán xa xôi, những công việc không có lợi ích ngay cho sự nghiệp nếu không bị thù ghét thì cũng không thể được xem trọng như đáng lẽ phải có. Cuộc sống hàng ngày quá ư vất vả, thành ra tuy vẫn hiểu chủ trương lớn là trọng trí thức, nhưng trong thực tế người ta vẫn thành kiến với họ, chí ít là không tôn trọng họ, thấy họ quá kềnh càng phiền phức.

Nên nhớ nét chủ đạo của hoàn cảnh là không khí thời chiến. Chiến tranh cào bằng tất cả. Chiến tranh tước đi những tự do tối thiểu của mọi công dân vì lúc ấy cần phải vậy.

Sự tập trung cho chiến tranh làm nảy sinh trong xã hội VN dăm sáu chục năm nay một tâm lý thường trực, là chỉ tính chuyện ăn ngay trước mắt. Ngay trong thời kỳ 1946-54, một nền giáo dục thời chiến đã được tổ chức để đào tạo nhân tài. Nhưng cũng vì cần phục vụ ngay nên đó là một nền giáo dục mang nặng tính thực dụng, không muốn và không thấy cần đạt tới chuẩn mực cần thiết.

Tình trạng phi chuẩn này còn được kéo dài mãi và trở nên nặng căn thêm bởi lý do sau đây. Khẩu hiệu của cách mạng là giáo dục phổ cập. Nhưng kinh tế thì chưa bao giờ hết khó khăn để đáp ứng nổi nhu cầu của đại chúng về giáo dục. Ngoài cách pha loãng, làm nhẹ, làm giảm thiểu chất lượng, không còn có cách nào khác.

Theo những quy luật đã chi phối kẻ sĩ thời phong kiến, như vậy là tính háo danh và bệnh vĩ cuồng đã có đủ điều kiện để bắt rễ vào tư duy và nếp sống của lớp trí thức mới được đào tạo. Nhìn vào giáo dục những năm hoà bình 1954-65, cũng như thời chống Mỹ, thấy số năm học ở phổ thông, ở đại học có thể tăng, một số thầy giáo được đi học ở Nga, Trung Quốc và các nước Đông Âu... Nhưng về căn bản, cái hồn cốt của giáo dục vẫn là chắp vá, tạm bợ, không có khả năng hội nhập với giáo dục thế giới. Các bằng cấp của chúng ta chưa bao giờ được đông đảo các nền giáo dục khác công nhận là một bằng chứng về tình trạng cô lập kéo dài đó.

Giai đoạn “phong cấp, phong tước” thời hậu chiến

Đánh dấu bước ngoặt trong ngành giáo dục cũng như trong quan niệm về giới trí thức là năm 1958 và mấy năm sau. Chịu ảnh hưởng của cuộc đấu tranh chống phái hữu ở Trung Quốc, và cuộc đấu tranh chống nhóm Nhân văn bên Văn nghệ, giới Đại học trước tiên là khu vực khoa học xã hội đã có một cuộc “thay máu”.

Các giáo sư nòng cốt như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Đào Duy Anh, Trương Tửu và lớp trẻ đầy tài năng như Cao Xuân Hạo, Phan Ngọc... bị cho thôi việc hoặc chuyển sang các viện nghiên cứu, thực tế là chỉ ngồi chơi xơi nước hoặc làm những việc không quan trọng như dịch tài liệu. Lớp người thay thế được chọn ra chủ yếu theo tiêu chuẩn chính trị.

Ban đầu, nhiều người trong số mới lên này nhũn nhặn, tự nhận là mình chỉ đóng vai trò thay thế, không đòi hỏi gì về chức danh, vui vẻ với đồng lương bé mọn mà vẫn chăm chỉ làm việc, và trong thực tế họ đã đóng vai trò thúc đẩy khoa học tiến tới. Tuy nhiên đến khoảng 1973-74 thì có một tình hình mới.

Trong thực tế giảng dạy và nghiên cứu, nhu cầu chuẩn hoá dù không được đặt ra chính thức, song vẫn như một xu thế mà bất cứ nền giáo dục nào cũng phải hướng tới. Ít ra là bề ngoài ta phải có được hình thức cho dễ coi một chút!

Lại thêm những khía cạnh mới trong tình hình xã hội đòi hỏi điều đó. Cuộc chiến tranh giải phóng bước vào giai đoạn kết thúc. Có một phương án sau này không xảy ra nhưng lúc đó được tính tới, đó là những cuộc đối thoại giữa hai xã hội miền Bắc và miền Nam. Trong cuộc đối thoại đó, không thể bỏ qua tiếng nói của giới trí thức. Ta cần phải có những giáo sư của ta những trí thức của ta chứ! Phải chứng minh cho phía bên kia thấy rõ là miền Bắc không chỉ biết làm chiến tranh mà còn biết làm học thuật. Và thế là nhu cầu phong cấp phong chức nổi lên, nó là đòi hỏi từ hai phía cả từ bên trong bản thân giới học thuật lẫn nhu cầu của xã hội.

Cái cách của xã hội ta xưa nay vẫn vậy. Thấy cần là làm, không đủ điều kiện cũng làm, làm bất kể phép tắc. Và từ chỗ ban đầu còn chặt chẽ nghiêm túc, sự mệt mỏi và nghiệp dư trong quản lý khiến cho công việc càng về sau càng được làm qua loa dễ dãi, chín bỏ làm mười mà có khi chỉ năm sáu thôi cũng đã coi là mười.

Những người cơ hội kém cỏi chỉ chờ có thế. Họ “lẻn” ngay vào những chỗ đất trống (tôi mượn chữ lẻn từ câu Kiều "Đẩy song đã thấy Sở Khanh lẻn vào” ) và từ chỗ xấu hổ, biết điều, quay ra chủ động thao túng tình hình.

Mỗi chúng tôi đã bị làm hỏng như thế nào?

Cách đây khoảng hai chục năm, tôi đọc được trên tấm danh thiếp của anh C. một người quen, bên cạnh tên tuổi có ghi thêm các chức danh sau đây, mỗi chức danh một dòng, tổng cộng chín dòng.
dòng

1: Nghề anh học ở đại học
dòng 2: Nghề anh đang làm
dòng 3: Chủ tịch Hội....
dòng 4: Tổng biên tập báo...
dòng 5: Đại biểu Quốc hội (năm đó anh đang là một ông nghị)
dòng 6: Thành viên Uỷ ban xxx của Quốc hội

Ngoài ra là ba chức danh nữa, tôi không nhớ xuể nhưng hình như là các loại giải thưởng được trao tặng. Thú thực ban đầu tôi cũng thấy buồn cười, nhưng sau thì thông cảm. Hồi ấy anh bạn tôi sau những nỗ lực bền bỉ, từ công việc chuyên môn được ngắm nghía để cơ cấu vào giới quan chức.

Lớn lên từ đám học sinh Hà Nội rồi thành cán bộ nhà nước, chúng tôi đã nếm đủ những đau xót của một bọn người mang tiếng là người làm nghề sáng tạo trong xã hội, luôn luôn cảm thấy mình có tội vì đã coi trọng việc học.

Đó là về tinh thần. Còn vật chất thì sao? Bao giờ đến lượt được mua xe đạp, bao giờ đến lượt được tăng lương, những việc đó chờ đã mỏi cổ, nói chi đến việc có được một cái nhà, xoay được một chuyến đi ngoại quốc?

Không ai tuyên bố chính thức, nhưng tất cả thực tế hình như đồng thanh rót vào tai mình, chỉ có một cách hết nghèo hết khổ là lọt vào tầm mắt của lãnh đạo.

Trở thành quan chức thì tốt nhất. Nếu không thì cũng phải có được những chức danh trong nghề, nó là cái dấu hiệu đánh dấu mình. Dù có phải luồn cúi chạy chọt một chút song vì cuộc sống bản thân và gia đình, hãy ráng mà giành lấy cho mình những danh vị cần thiết.

Tôi đã nói là cần thông cảm với anh bạn C với tấm danh thiếp chín chức danh của mình. Vì hồi ấy sau khi ghé chân quan trường, đoàn thể, anh đang lo xin đất làm nhà.

Một là, tuy biết trên nguyên tắc trước sau làm quan sẽ sớm được chia nhà, nhưng trong thực tế không đơn giản có ghế là có nhà ngay. Muốn được miếng ngon miếng sốt, còn phải cạnh tranh chán với các vị quan khác thì mới được như ý. Hơn nữa, quan trong văn nghệ là do dân cử, có khi chỉ ngồi được vài năm.

Vốn tính thực dụng, anh bạn tôi hoàn toàn hiểu điều đó. Ngồi chưa ấm ghế, anh bắt tay ngay vào việc xin đất. Mà anh làm thật khôn ngoan. Người khác hách dịch công khai huy động cả cơ quan lo chuyện riêng cho mình. Còn C. thì hoàn toàn lặng lẽ tự mình làm hết. Lặng lẽ viết công văn. Lặng lẽ đóng dấu. Lặng lẽ đến các nơi có liên quan.

Chính tấm danh thiếp chín dòng của C mà tôi dẫn ra ở trên xuất hiện trong thời gian đó. Tôi thầm dự đoán anh bạn đã phải loay hoay rất nhiều trong việc soạn ra danh sách các chức vụ để không quên một chức nào. Đây là tôi nói loại người còn đang hiền lành, nhân biết cái danh có thể đổi ra tiền thì lợi dụng nó.

Lại còn loại người thứ hai là điên cuồng săn đuổi danh vị, sau đó mượn danh vị để tiến thân, ngày càng leo mãi lên trong hệ thống quan chức, dù chỉ là trong phạm vi quan chức chuyên môn. So với họ, anh C. của tôi còn tử tế chán.

Nhưng cả loại người này nữa cũng không phải là “từ trên trời rơi xuống”. Mà họ cũng là sản phẩm của một sự thích ứng - thích ứng với cách đánh giá người và dùng người của xã hội. Nhưng đây là vấn đề thuộc về khoa xã hội học quan chức mà tôi chưa có dịp nghiên cứu.

Trong bài này, trong chừng mực nào đó, tôi đã mở rộng ra nói về thói háo danh và căn bệnh vĩ cuồng mà người mình thường mắc, từ xưa trong hoàn cảnh nhược tiểu đã mắc, tới nay trong hoàn cảnh chớm hội nhập với thế giới bệnh lại trầm trọng hơn. Đây là những quan sát bước đầu, cần sự chia sẻ phản bác của các đồng nghiệp.

Để kết thúc, tôi đưa ra hai kết luận cuối cùng :

Một là hãy thông cảm với những người trong cuộc. Không phải người trí thức Việt Nam sinh ra đã ham chức danh như chúng ta thấy. Hoàn cảnh đẩy họ đến chỗ phải làm vậy.

Hai là, bệnh khó chữa lắm. Vì nó chỉ là một biểu hiện của tình trạng tha hóa trí thức cần được nghiên cứu trên quy mô rộng hơn và có tầm khái quát hơn.

Thứ Sáu, 7 tháng 8, 2009

Thói háo danh và vĩ cuồng của trí thức

Thoạt đầu mới về nước tôi thấy hơi buồn cưới khi thấy những danh hiệu như “Nghệ sĩ nhân dân”, “Nghệ sĩ ưu tú”, “Thầy thuốc nhân dân”, “GS TSKH”, “GS TS”, v.v… nhưng sau đó có lẽ thấy mãi nên quen. (Hình như mấy cái "nhân dân" và "ưu tú" này là tàn dư của bắt chước Tàu Mao-ít). Từ quen đến không cần để ý đến làm gì cho mệt. Do đó, thật là vui khi biết “Chuyện có thật: Một nhà báo Mỹ sau khi viếng VN trở về Mỹ, đưa cho bạn bè xem danh thiếp của một người mà anh ta gặp ở Hà Nội, trên đó người này xưng là "Excellent Artist". Bạn bè của ký giả Mỹ ôm bụng cười quá đổi!” (thấy trên trang của TDH kể lại. Đúng là ôm bụng cười.

Chuyện có thật ở California. Hôm đó trong đám cưới có mời một khách người Mĩ là giáo sư sử học của một trường đại học trứ danh bên Mĩ. Ông giáo ngồi bàn mà chung quanh ông là người Việt. Một bà kia nói rằng con bà đứa thì kĩ sư, đứa bác sĩ, đứa luật sư, … nói chung toàn là “trí thức”, là “thành tài”. Ông giáo sư nghe xong, nhẹ nhàng hỏi lại: “Do you have any ordinary child in your family”? (tạm dịch: Bà có đứa con bình thường nào trong nhà không?). Bà kia chắc chắn không hiểu chữ ordinary (bình thường đối nghĩa với "bất bình thường" = điên) trong câu hỏi, nên hãnh diện trả lời : không. Thật là hợm hĩnh!

Ngay cả tôi khi viết báo cũng bị người biên tập gắn mấy cái mẫu tự đáng ghét đó trước tên tôi. Phàn nàn hoài, nhưng họ bảo phải như vậy. Bó tay! :-)

NVT

===

http://www.tuanvietnam.net/vn/thongtindachieu/7621/index.aspx

Thói háo danh và vĩ cuồng của trí thức

Thói háo danh và căn bệnh vĩ cuồng, từ xưa trong hoàn cảnh nhược tiểu nhiều người đã mắc, tới nay trong hoàn cảnh chớm hội nhập với thế giới, bệnh lại trầm trọng hơn trong một bộ phận trí thức.

Lời TS: Trí thức là một thành phần quan trọng, đóng vai trò định hình tư tưởng, dẫn dắt xã hội. Tuy vậy, theo nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn, không phải toàn bộ nhưng ít nhất một bộ phận trong số họ có những nhược điểm cố hữu. Tuần Việt Nam xin giới thiệu một số bài viết của ông về chủ đề này với mục đích tự nhìn lại mình, phản tư để thấu hiểu và thay đổi chính mình.

Bệnh sùng bái danh hiệu, chức vụ... trong giới trí thức vừa được Đặng Hữu Phúc xem như một quốc nạn. Chỉ có thể chia sẻ với một khái quát như thế nếu người ta nhận ra những gì đứng đằng sau cái căn bệnh có vẻ dễ thương đó là sự liên đới của nhiều “chứng nan y“ cùng là sự tha hoá của giới trí thức cũng như của nhiều lớp người khác.
Bài viết Tôi chỉ là Ashkenazy! Hay quốc nạn loạn chức danh, học vị gợi tôi nhớ tới một câu chuyện trong sử cũ.

Nhìn người bằng... chức danh

Nửa cuối thế kỷ thứ XVII, có một trí thức Trung Quốc là Chu Thuấn Thuỷ trên bước đường chống Thanh phục Minh nhiều lần đến Việt Nam. Lần ấy, khoảng 1657, nghe Chúa Nguyễn có hịch chiêu mộ những ai biết chữ để giúp vào việc nước, Chu ra trình diện. Nhưng ông cảm thấy chung quanh không hiểu mình, không thi thố được tài năng, lại bị làm phiền, nên bỏ sang Nhật. Sau ông đóng góp rất nhiều vào viêc phát triển xã hội Nhật.

Chu không phải là loại người đọc sách xa lánh sự đời. Một học giả Nhật đã viết về Chu “Cái học của tiên sinh nhấn mạnh về "kinh bang tế thế". Giả sử nếu cần biến một vùng đất hoang thành phố thị, phải tập hợp sĩ nông công thương, thì một tay tiên sinh có thể cáng đáng để xây dựng nên phố thị. Thay vì “ thi thư lễ nhạc” tiên sinh thích nghiên cứu và tìm hiểu sâu sắc về cách canh tác ruộng nương và cách xây dựng nhà cửa, cách làm rượu làm tương... Tiên sinh có thể dạy người ta bất cứ việc gì” .(1)

Riêng chuyện bộ máy chính quyền Đàng Trong không thể chấp nhận một người như trên, đủ cho ta hiểu trình độ của bộ máy đó là như thế nào.

Trong tập ký sự của mình, Chu Thuấn Thuỷ kể khi trình diện nhà cầm quyền địa phương, gặp chuyện buồn cười là người Việt Đàng Trong bắt ông ứng khấu ngay một bài thơ rồi viết trên giấy. Tiếp đó câu đầu tiên bị hỏi là “Cống sĩ với cử nhân và tiến sĩ, bên nào hơn ?“.

Khi biết Chu chỉ là cống sĩ, viên quan địa phương có ý xem thường, cho học lực của Chu không thể nào đọ được các vị khoa bảng nhà mình.

Từ câu chuyện về Chu Thuấn Thuỷ tới câu chuỵên về nghệ sĩ Nga Vladimir Ashkennazy mà Đặng Hữu Phúc vừa kể, như là có sự nối tiếp. Hoặc có thể nói cả hai phối hợp với nhau làm nên một đôi câu đối khá chỉnh. Một bên thì không thể hiểu người nổi tiếng lại không có một chức danh nào, còn bên kia thì không cần biết trước mặt mình là người đã được hoàng đế nhà Minh mời ra giúp nước, chỉ nghe cái bằng cống sĩ đã bĩu môi chê bai - giữa người ngày xưa với người ngày nay, sao mà có sự ăn ý đến thế!

Từ háo danh tới vĩ cuồng

Đặng Hữu Phúc đã nói tới cái khó chịu khi phải nghe đám người “mở miệng là họ nói tới chức tước “ - tức đám người háo danh - trò chuyện với nhau. Ai đã sống trong giới trí thức ở ta hẳn thấy chuyện đó chẳng có gì xa lạ.

Anh A và anh B vốn cùng nghề và cùng cơ quan, họ cùng dự buổi họp nhỏ, chứ không phải đăng đàn diễn thuyết trước bàn dân thiên hạ gì.

Thế mà cứ động phát biểu thì từ miệng anh A, vang lên nào là “như giáo sư B đã nói” (gọi đầy đủ cả tên họ), nào là “tôi hoàn toàn đồng tình với các luận điểm giáo sư B. vừa trình bày“ (Thực ra có luận điểm khoa học gì đâu mà chỉ là mấy nhận xét vụn). Và B cũng đáp lại bằng cách nói tương tự.

Khi phải dự những cuộc hội thảo ở đó cách xưng hô và nói năng giữa các thành viên theo kiểu như thế này, tôi chỉ có cách ráng chịu một lúc rồi lảng. Tôi không sao nhớ nổi họ nói với nhau điều gì. Và tôi đoán họ cũng vậy. Vì mỗi người trong họ có vẻ còn mải để ý xem người phát biểu đã gọi người khác đúng chức danh chưa, hay để sót, chứ đâu có chú ý tới nội dung các phát biểu. Không khí nhang nhác như những buổi họp quan viên trong các làng xóm xưa, mà Ngô Tất Tố hay Nam Cao đã tả.

Tại sao chúng ta khó chịu với lớp người háo danh này? Đơn giản lắm, ta thấy họ ấu trĩ, non dại, thực chất họ thấp hơn cái vị thế mà họ chiếm được, không xứng với chức danh họ nhăm nhăm mang ra khoe.

Ai đã thử quan sát tình trạng tinh thần của đám người mê tín hẳn biết, người càng thiếu lòng tin, thì khi vào cuộc mê tín càng cuồng nhiệt.

Giới trí thức cũng vậy, cái sự thích kêu cho to chẳng qua là một cách để xoá bỏ mặc cảm. Kẻ yếu bóng vía lấy cái mã bên ngoài để làm dáng che đậy cho sự trống rỗng bên trong.

Mấy thói xấu mà Đặng Hữu Phúc nêu lên chỉ đáng để người ta cười giễu, ghét bỏ, thương hại. Song ác một nỗi chính nó lại là dấu hiệu đầu tiên của nhiều chứng nan y khác chẳng hạn căn bệnh mà Cao Xuân Hạo trong một bài viết ở cuốn Tâm lý người Việt nhìn từ nhiều góc độ (2) gọi là bệnh vĩ cuồng ( me’ganomanie).

Cao Xuân Hạo kể một chuyện mà thoạt nghe chắc chẳng ai dám tin. Hàng năm cơ quan lưu trữ nước mình thường phải thanh lý hàng tấn những hồ sơ “sáng kiến phát minh“ gồm toàn đề nghị viển vông do người trong nước ùn ùn gửi tới, ví dụ một người đề nghị ta cần mượn của Liên Xô (hồi đó còn Liên xô ) tên lửa vượt đại châu để bắn vào bắc cực khiến trục trái đất lệch thêm mười độ sao cho VN thay đổi vĩ độ và trở thành một nước ôn đới (vì tác giả “đề án” này tin rằng chỉ có khí hậu ôn đới mới thích hợp với một tốc độ vũ bão, giúp nước ta đuổi kịp và vượt xa các nước tiên tiến trên thế giới).

Cao Xuân Hạo nói thêm điều đáng lo là ở chỗ phần đông chúng ta khi nghe những điều quái gở ở đây đều thấy bình thường, cùng lắm thì là loại sai lầm dễ tha thứ; còn ai tỏ ý kinh hoàng thì bị mọi người coi là bệnh hoạn vô đạo đức vì đã không tin vào khả năng sáng tạo của những người bình thường.

Cần phải gộp cả thói háo danh và bệnh vĩ cuồng nói trên để phân tích vì giữa chúng có một điểm chung là đều xuất phát từ những người và nhóm người sống trong tình trạng cô lập, không có khả năng tự nhận thức, đứng ngoài nhịp phát triển tự nhiên của thế giới.

Tình hình lại cần được xem là tệ hại bởi nó bám rễ vào bộ phận tinh hoa của xã hội.
Trí thức là bộ phận mũi nhọn của một cộng đồng, của những thể nghiệm làm người của cộng đồng đó. Những nhược điểm của trí thức chẳng qua chỉ là phóng to nhược điểm của cộng đồng. Và nếu như những nhược điểm này đã thâm căn cố, đế trở thành một sự tha hoá, thì tình trạng của người trí thức sẽ là một phòng thí nghiệm hợp lý để nghiên cứu về tình trạng tha hoá nói chung. Phải nghiên cứu kỹ lưỡng thì may ra mới có cơ hội chữa chạy hay ít nhiều cũng giảm thiểu tình hình nguy hại.

Vương Trí Nhàn

Ghi chú:

(1) Chu Thuấn Thuỷ Ký sự đến Việt Nam năm 1657 (An Nam cung dịch kỷ sự), Vĩnh Sính dịch và chú thích, Hội khoa học lịch sử Việt Nam 1999, tr.11

(2) Trung tâm nghiên cứu tâm lý dân tộc -- Tâm lý Người Việt nam nhìn từ nhiều góc độ, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh,2000, tr.82-87