Thứ Năm, 15 tháng 4, 2010

Một địa chỉ lịch sử - văn hóa lại ra đi

Hôm trước về Sài Gòn, định ghé qua Givral nhâm nhi li cà phê cùng anh bạn, nhưng đến nơi tôi bị sốc khi thấy quán bây giờ chỉ là một đống gạch vụn. Thế là một địa danh lịch sử lại ra đi.

Vài tuần trước, một dãy nhà kiểu Victoria, trên 100 tuổi, ngay bên cạnh Viện Garvan của tôi đã phải chịu số phận bị phá sập để nhường chỗ cho một building mới hoành tráng hơn, hiện đại hơn làm trung tâm nghiên cứu về bệnh ung thư. Trước khi phá sập 4 căn nhà Victoria đó, các giới chức Úc bàn bạc cả năm trời với các chuyên gia về kiến trúc và bảo tồn di sản văn hóa. Ban đầu người ta định giữ mặt tiền, nhưng các chuyên gia xây dựng và kĩ sư không đồng ý, nên quyết định sau cùng là cho dãy nhà này … ra đi. Trước khi phá hủy dãy nhà này, người ta cho mời các họa sĩ, nhiếp ảnh gia đến ghi lại tòa nhà và quang cảnh chung quanh. Các nghệ sĩ này tiêu ra cả tuần chỉ vẽ lại cảnh cũ. Tôi đoán những bức họa và ảnh này sẽ lưu lại đâu đó trong viện bảo tàng, và chắc chắn sẽ được trưng bày trong trung tâm ung thư trong tương lai.

Trong thời gian 4 căn nhà Victoria của Sydney ra đi, thì ở bên kia Thái Bình Dương, Quán cà phê “lịch sử” Givral cũng ra đi. Tuy nhiên, tôi không biết trước khi “hạ sát” Givral, người ta (tôi muốn nói đến các giới chức TPHCM) có cho ghi lại hay vẽ lại những sinh hoạt lần cuối cùng của Givral. Hi vọng là có để thế hệ sau còn có dịp chiêm ngưỡng một nơi chốn từng là “cơ sở làm việc” của nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn.

Đọc bài dưới đây của bác Đỗ Trung Quân bình luận về sự ra đi của Givral mà lòng thấy buồn buồn … Lần nào về Việt Nam tôi cũng có dịp ghé qua quán Givral đế nhâm nhi tách cà phê. Thích nhất là ngồi ở góc quán (chẳng biết có phải chỗ ông Phạm Xuân Ẩn từng ngồi hay không?) nhìn ra phố và dòng người ta qua lại. Vị trí góc quán đúng là vị trí của “sếp” vì có thể nhìn toàn cảnh một góc của trung tâm thành phố. Ngồi góc quán mà tưởng như mình ôm cả kỉ niệm và những dao động lịch sử trong lòng.

Tôi nghĩ giá trị của Givral chỉ là lịch sử, chứ về mặt ẩm thực thì chẳng có gì đặc sắc lắm. Cà phê ở Givral không ngon hơn các quán thời thượng trên đường Phạm Ngọc Thạch. Thức ăn ở đây, kể cả bánh ngọt và cơm tây, đều … dở. Thật ra, có thể nói là rất dở. Nhân viên phục vụ thì … chảnh chẹ, như chẳng cần khách. Tuy nhiên, giá cà phê và thức ăn ở đây thì cao ngất ngưởng. Có lẽ chính vì thế mà quán này chủ yếu thu hút du khách ngoại quốc từ mấy khách sạn chung quanh. Thế nhưng tôi vẫn ghé qua Givral khi có dịp về Việt Nam, có khi một mình nhưng thường là với bè bạn, như là để có chút hơi hám Givral. Nói như Đỗ Trung Quân là chính xác: Givral không chỉ là một quán cà phê, mà còn là “một địa chỉ văn hóa và địa chỉ lịch sử, lịch sử đi qua đó”. Nay thì Givral đã ra đi, tức một địa chỉ văn hóa đã ra đi. Có thể nào xem đây là một hành động hủy diệt văn hóa?

Tôi biết đến sự ra đi của Givral tuần vừa qua (chính xác là hôm 9/4/2010). Hôm đó tôi đang ở tại một khách sạn trên đường Đồng Khởi (tức đường Tự Do cũ), nên buổi chiều sau khi xong việc, tôi mon men ra nhà sách Xuân Thu định mua vài cuốn sách trước khi về Sydney. Đến nơi chẳng thấy nhà sách đâu, mà chỉ thấy một anh thanh niên cầm một tập giấy phát cho người ghé nhà sách với nội dung báo tin cho biết nhà sách đã đóng cửa và chuyển sang một địa chỉ khác. Nhìn vào trong nhà sách tôi thường xuyên ghé mỗi khi về Việt Nam thì thấy một đóng gạch vụn và nhiều bao plastic. Buồn. Tôi cuốc bộ sang quán cà phê Givral định uống một li cà phê và có hẹn với một anh bạn, thì quán chỉ còn một đóng gạch vụn, tường loang lỗ, trông rất thảm hại, như bị bom. Lúc đó tôi mới biết và sốc khi thấy quán cà phê “lịch sử” này bị phá nát. Đứng tần ngần một hồi và hỏi mấy người biết chuyện thì tôi mới biết rằng nguyên khu đất trung tâm của trung tâm Sài Gòn này đã có chủ mới: đó là ông chủ từng xây VinPearl ngoài Nha Trang. Thế là một phần hồn của Sài Gòn đã ra đi.

So sánh với người Âu Mĩ, tôi thấy người mình nói chung không mấy trân trọng quá khứ. Ở ngoài này, dù là nước giàu có, người ta nâng niu, trân quí từng ngôi nhà cổ, cố gắng gìn giữ những building thời xưa, bất kể những ngôi nhà hay building này do tư nhân hay Nhà nước quản lí. Ở Sydney, có một building trên 100 tuổi, khi người ta xây lại thì chỉ phá phía trong, chứ mặt tiền và hoa văn với gạch đỏ và đá cát thì vẫn giữ y chang như 100 năm về trước. Những chỗ xuống cấp thì tân trang lại bằng vật liệu thời xưa. Còn ở nước ta, biết bao ngôi chùa cổ bị phá tang hoang để tân trang nhưng kì thực là một chiêu thức làm tiền. Những ai còn nghi ngờ thì thử vào Dinh Độc Lập một lần sẽ thấy chỗ này xuống cấp như thế nào. Thê thảm. Một lần tôi dự hội nghị ở đó, nhưng chắc chẳng bao giờ dám quay lại vì mùi hôi thối từ toilet dội lên phòng họp. Kinh dị mà còn xấu hổ với khách ngoại quốc nữa. Ấy vậy mà người ta tổ chức cho du khách vào để … kiếm tiền. Ở phía Nam, nhiều ngôi nhà cổ ở Long An bị “bứng” đi và bán cho người nước ngoài. May phước là còn có người Việt nhanh tay mua lại, chứ không thì chẳng biết bao nhiêu căn nhà cổ đã lọt vào tay người Nhật, người Hàn.

Chợt nhớ đến câu nói “Trên đời này có một thứ không bao giờ thay đổi: đó là đổi thay”. Dù biết rằng không ai tắm ở một dòng sông hai lần, một ngày nào đó những gì mình từng thấy và biết sẽ ra đi, sẽ nhường chỗ cho những cái gọi là “hiện đại hóa”, là “tiến bộ”, là “văn minh”, là “cải tạo”, hay gì gì đó, nhưng tôi vẫn thấy bùi ngùi khi biết một nơi chốn mang tính lịch sử và văn hóa nay chỉ còn lại trong kí ức.

NVT

===

http://dotrungquan.multiply.com/journal/item/893/893

Chào – không còn gặp lại một nơi lịch sử từng đi qua

Quán cà phê Trieste* ở San Francisco cứ ám ảnh tôi mãi. Nó chỉ là cái quán nhỏ nằm ở góc phố Vallejo/Grant được mở từ năm 1956, bởi một người Ý nhập cư, nhưng từ đây lịch sử một địa chỉ văn hóa lừng lẫy được hình thành. Nó là nơi lui tới của nhiều nhà thơ, nghệ sĩ danh tiếng, là “ phòng khách” của Jack Kerouac, Allen Ginsberg và những nhà thơ Beatniks bạn bè. Nơi thi sĩ gốc Nga giải Nobel văn chương Joseph Brodsky gạch gạch xóa xóa những vần thơ của mình… Còn nữa. Nơi một chiếc bàn gỗ nhỏ góc phòng còn phảng phất bóng dáng của Francis Ford Coppola ngồi gọt giũa kịch bản “The Godfather” những năm 70… Chính họ, những ẩm khách mà hoạt động nghệ thuật và danh tiếng đã biến Caffe Trieste trở thành một địa điểm văn hóa bất cứ du khách nào quan tâm đến nghệ thuật đều mong muốn bước vào.

Về Sài Gòn, tôi bỗng nhớ khôn nguôi những quán cà phê của mình, những nơi lẽ ra cũng phải trở thành địa chỉ văn hóa, phải được gìn giữ và bảo tồn cho một thành phố thu hút du khách mọi nơi không chỉ vì cái danh xưng cố tình bị thu nhỏ – thành phố “kinh tế” – mà còn ẩn hiện, nhưng là ẩn hiện tràn lan, đầy ấn tượng trong cuộc sống tinh thấn của nhiều thế hệ thanh niên, những cánh cửa văn hóa tưởng như không toan tính nào có đủ sức niêm phong, hay xóa mờ. La Pagode – quán cà phê “Cái chùa “ từng nằm trên góc ngã tư Lê Thánh Tôn – Tự Do (trước là Rue d’Espagne và Rue Catinat, nay được vinh danh là Đồng Khởi) đã mất đi từ lâu. Nó chính là nơi nhiều gương mặt danh tiếng nhất về văn chương, thơ ca, hội họa, âm nhạc, cũng như những tên tuổi lớn trong các hoạt động văn hóa xã hội của Sài Gòn một thời thường có mặt. Hòa bình đã 35 năm, những ngộ nhận ấu trĩ – hay giả vờ nhìn nhận là ấu trĩ – có lẽ đã đi qua, hay ít nhiều không còn nặng nề như thời tiếp quản thành phố. Tiếc thay, La Pagode đã biến mất, biến mất vĩnh viễn. Brodard – một quán kiểu Pháp danh tiếng khác của Sài Gòn cũng không còn là Brodard nguyên trạng của nó: nó đã thay tên và thay cả kiến trúc. Cái còn lại trong “bộ ba” danh tiếng ấy, (bộ ba, nếu không kể một địa điểm danh tiếng khác của Sài Gòn mà chính tôi sau này chỉ nghe nói chứ chưa hề có dịp đặt chân tới vì còn quá nhỏ: La Croix du Sud, cũng trên đường Catinat) cái còn lại là Givral, nơi khi chọn làm bối cảnh một trường đoạn của bộ phim Người Mỹ trầm lặng đoàn làm phim đã không ngại tốn kém, bắt buộc phải dựng lại đúng màu sơn, đúng hình dáng của nó ở thập niên 60-70. Ngay cả khách sạn phía đối diện, là Hotel Continental, một địa điểm khác xuất hiện trong bộ phim dựa theo tác phẩm văn học của Graham Greene, cũng phải trở lại kiến trúc thời ấy. Thật dễ hiểu: các nơi này vừa là địa điểm văn hóa vừa là những địa chỉ có thật trong bước đi của lịch sử. Nhà báo và tình báo Phạm Xuân Ẩn ở Sài Gòn từng chọn Givral làm chỗ ngồi thường xuyên, cũng như vô số nhà báo trong và ngoài nước những năm chiến tranh Việt Nam: họ chọn địa điểm này để nhâm nhi, quan sát và thu thập tin tức báo chí mỗi ngày, muốn gặp nhau thường khi khỏi phải hẹn trước…

Những ngày Givral chuẩn bị lên máy chém, tôi thường ra kéo ghế ngồi một mình, ngẩn ngơ không tin cái chuyện dự án xóa sổ Givral chung với toàn bộ khu thương xá Eden là chuyện có thật. Quy hoạch một thành phố, chỉnh trang một thành phố, phát triển một thành phố tất nhiên là việc cần thiết, nhưng người ta hoàn toàn không được tự cho phép làm những công việc ấy với một tầm nhìn thiếu sâu sắc, chỉ tính đến đường đi của một thứ lịch sử bị ép mỏng không quá một thế kỷ mà quên mất công việc bảo tồn những cái cần bảo tồn, là những nơi chốn có thể được coi là trở thành di sản tinh thần.

Trieste giờ đây đã là một chuỗi quán cà phê danh tiếng trên đất Mỹ. Khởi đầu tên tuổi, thương hiệu của mình từ cái quán nhỏ bé ở góc phố Vallejo/Grand kia (từ một người Ý nhập cư làm nghề lau chùi cửa kính) vào những năm 1956, ngày nay nhắc đến Caffe Trieste không phải là ghi nhận những thành tích kinh doanh của hệ thống Trieste, mà trước tiên là nhắc tên một địa chỉ văn hóa và nghệ thuật không chỉ của riêng người Ý, mà của cả người Mỹ.

Đất nước Cuba trải qua nhiều năm chiến tranh khốc liệt, đã khoác lên mình nhiều chiến bào khác biệt, đã kinh qua nhiều cuộc cải cách đầy “khí thế cách mạng” triệt để. Người Cuba, ngay cả giữa thủ đô La Habana, nghe nói là cuộc sống hãy còn nhiều thiếu thốn vất vả, với hình ảnh “ấn tượng” những chiếc xe bò chạy thay cho xe tải, nhưng những người yêu mến Cuba còn may mắn có quyền hi vọng, bởi lẽ không một địa chỉ văn hóa nào trên đất nước này bị cuốn theo cơn lốc đổi mới kiểu quê mùa giả tạo, và những ai thiết tha với không khí văn hóa Cuba vẫn sẽ hoàn toàn có cơ may tìm lại nó dễ dàng, và chẳng cần phải qua những lễ hội trống kèn nhang khói, mà chính trong cuộc sống ngày thường.

Ôi, hãy tưởng tượng một người Paris một buổi sáng ra phố, bỗng thấy ở cái chỗ bao nhiêu năm là nơi có cái bảng hiệu Café des Deux Magots, hay Café de Flore, nay chỉ là những đống gạch vụn, để rồi sau đó thấy dựng lên một thứ Mỹ không ra Mỹ, Tàu không ra Tàu, Ấn độ không ra Ấn độ…

Givral cũng như La Pagode, Brodard, hay La Croix du Sud trên đường Catinat ngày nào, là một trong những địa điểm mà vô tình, một cách nào đó, lịch sử đã đóng dấu ấn lên cả những chiếc ghế ngồi.

Givral. Xin vĩnh biệt cái quán góc phố nơi ngày còn nhỏ ta từng được mẹ nắm tay dẫn qua trên hè phố Sài Gòn…

0 nhận xét:

Đăng nhận xét