Hôm nay, nhân dịp 35 năm kỉ niệm ngày 30/4 và ngày cuối tuần, tôi nhớ lại những ngày tị nạn đầu tiên trên xứ người. Xin ghi chép vài hàng để các bạn, nhất là những bạn chưa từng biết cuộc sống tị nạn ra sao, biết được một thời đau khổ …
Sau 3 ngày đêm lên đênh trên biển, ghe chúng tôi gồm 23 người cập bến Budi. Budi, sau này tôi mới biết là một làng chài ở phía nam Thái Lan, giáp biên giới Mã Lai. Budi không phải là lựa chọn của chúng tôi. Thật ra, lúc ra đi, đâu ai biết ghe mình sẽ đến đâu. Chỉ mong rằng nếu may mắn thì sẽ đến một vùng đất nào đó thuộc các nước Đông Nam Á có trại tị nạn của Cao ủy Tị nạn Liên hiệp quốc (UNHCR) hay được một tàu hàng ngoại quốc thương tình cứu vớt; còn nếu không may mắn thì sẽ bỏ mạng trên biển. Chúng tôi sẵn sàng chết. Nhưng ghe chúng tôi may mắn. Khi nhìn thấy đất liền từ xa, tài công quyết định mở hết ga hai cái máy dầu trực chỉ thẳng đến đó. Chưa đến nơi thì gặp thuyền đánh cá của người địa phương, họ lấy hết dầu, hết gạo, và dĩ nhiên là luôn tài sản trên ghe, rồi chỉ đường cho chúng tôi vào bờ. Gần đến bờ thì ghe hết dầu, và chúng tôi phải lội (nếu ai biết lội) và giúp nhau bồng bế vào đất liền.
Lên bờ. Mừng hết lớn. Sau 3 ngày đêm trên chiếc ghe vốn được đóng để đi sông (chứ không đi biển) mà sống sót như thế thì quả là quá may mắn. Đói. Khát. Nhọc nhằn. Chúng tôi mệt nhừ. Có vài chị khi lên bờ chỉ biết nằm lăn ra vì đói quá. Nhìn toàn cảnh thật là thảm thương, vì ai cũng mặt mũi đen sậm (sau mấy ngày phơi nắng biển), quần áo lếch thếch, chẳng có giầy dép gì cả. Riêng tôi thì chỉ còn cái quần đùi và cái áo sơmi đã biến thành màu đen sau mấy ngày gần buồng máy.
Lên đến bờ chúng tôi chẳng biết làm gì. Đây là chiếc ghe tị nạn đầu tiên từ Việt Nam ghé đến làng này, cho nên người dân trong làng chài cũng chẳng biết làm gì. Thế là họ chạy đi kêu cảnh sát đến giải quyết. Cảnh sát địa phương đến, và việc đầu tiên là họ tìm một chỗ cho chúng tôi tá túc. Ở xã đâu có nhà tù nào chứa đến 23 người, cho nên cuối cùng thì họ sắp xếp cho chúng tôi tạm trú ngoài trời, trong một vườn dừa tại một bờ biển cách chỗ chúng tôi đổ bộ chỉ chừng vài trăm mét. Vì chúng tôi là nhóm người Việt đầu tiên đã lạc đến làng chài này, dân làng địa phương tò mò kéo đến vây quanh kín mít để ... nhìn mặt. Khác với những con người hung bạo mà chúng tôi gặp trên biển cả, họ là những người dân chài hiền lành, chất phác, luôn có nụ cười trên môi. Mặc dù khác biệt về ngôn ngữ và trở ngại trong trao đổi bằng tiếng Anh, dân chúng ở làng này, nói chung, đã đối xử với chúng tôi trong tình người trong lúc hoạn nạn: khi mới lên bờ, họ mang quần áo, gạo và thức ăn cho chúng tôi sống qua ngày. Chúng tôi có được 3 cái mùng để ngủ ban đêm.
Tuy nhiên, những ngày đầu cũng xảy ra vài chuyện cười ra nước mắt. Khi đêm đến, hàng đoàn đàn ông con trai trong làng vận xà-rông kéo nhau tới ngồi xổm, hai tay chống lên cầm, phì phèo thuốc lá và … trố mắt nhìn chúng tôi như nhìn những sinh vật xa lạ! Có người còn bạo dạn giở trò sàm sở [hay thân mật] lại gần sờ tay chân đàn bà con gái, gây ra náo loạn trong nhóm. Đám đàn ông và thanh niên nhận thấy tình thế không mấy an toàn, nên chúng tôi quyết định phải bảo vệ phái yếu. Ban ngày, một nhóm người đi làm kiếm gạo, cá và nước mắm, còn một nhóm đàn ông thì ở lại để bảo vệ. Ban đêm, chúng tôi ngủ vòng ngoài, phụ nữ ngủ vòng trong. Ấy vậy mà đêm thứ hai có một tên nào đó lại gần đưa tay sờ mó gặp nhằm anh thanh niên kia, anh ta “dằn” cho một trận và tên đó chạy mất trong đêm tối.
Chúng tôi ở đó gần 1 tuần mà chẳng có ai đến lấy lời khai. Sau này tôi mới biết là họ chờ nhân viên UNHCR xuống để làm thủ tục, còn cảnh sát địa phương chỉ quản lí chúng tôi ở đó. Trong khi chờ đợi, chúng tôi mỗi người đi kiếm việc làm. Mà, trong làng này thì có nhiều việc làm lắm. Người thì đi gở lưới cá cho dân làng, người đi chặt lá dừa (làng này có rất nhiều dừa), người thì đi đổ bêtông ở làng bên, v.v… Riêng tôi thì có một gia đình dân chài mướn làm thuê cho họ. Công việc của tôi là đi theo ghe câu ban đêm, và sáng về thì phụ giúp đem cá mực lên nhà, rồi từ đó họ đem đi bán ở chợ. Nhớ đêm đầu khi được biết mình sẽ đi chung với người chủ tôi rất lo lắng và thủ sẵn. Chiếc ghe chỉ có tôi và ông chủ. Hai người không nói được gì với nhau, ngoài ra dấu tay. Tôi nghe đến mấy vụ hải tặc giết người, nên cũng nghĩ linh tinh rằng biết đâu ông này muốn thủ tiêu mình. Tôi bày tỏ quan ngại này với anh em trong tàu, thì mấy người có kinh nghiệm đi biển chỉ cho tôi vài “mẹo” để sống sót. Họ chỉ cho tôi rằng khi đi biển với ông chủ, trong khi ông chủ giữ tay máy, tôi lúc nào cũng tìm cách ngồi gần nơi có “vũ khí”, để phòng ngừa nếu ông ấy ra tay thì tôi sẽ ra tay trước. Có gì thì cả hai cùng chết, chứ dứt khoát không chết một cách vô duyên được. Nhưng tôi và các bạn tôi quá lo xa, nghĩ xấu cho người ta, chứ trong thực tế ông chủ rất tốt với tôi. Những buổi chiều lên ghe ra biển, lúc nào cũng nhìn tôi với ánh mắt trìu mến. Cho đến nay tôi vẫn nhớ ánh mắt đó. Đi được hai ba đêm, tôi không còn nghi ngờ gì ông ta nữa. Sau này chúng tôi trở thành thân quen. Thấy tôi không có quần áo, ông ta cho mấy bộ đồ cũ; có bộ tôi còn giữ cho đến ngày nay, tức 30 năm rồi. Mỗi ngày, ông ta cho tôi một chai nước mắm, vài gói mì tôm, và vài lít gạo. Tôi đem những “chiến lợi phẩm” đó về để đóng góp với mấy anh em khác trong cuộc sống tập thể.
Cũng có khi chúng tôi bị lạm dụng. Thấy đám tị nạn chúng tôi chẳng có đồng xu dính túi, nên dân làng tìm đến chúng tôi như là một nguồn lao động rẻ. Có hôm tôi đi với mấy anh bạn khác đi chặt lá dừa. Chao ôi, vào đến vườn dừa mênh mông của họ, tôi choáng ngộp qui mô trồng dừa ở đây, và nhìn lại mấy cây dừa trong làng quê mình chẳng có ý nghĩa gì cả. Những cây dừa rất cao và thẳng thấp, được trồng một cách rất thứ tự, và nhìn toàn cảnh rất đẹp mắt. Ở đây, họ cho khỉ leo dừa, chứ người khó mà leo những cây dừa cao như thế. Nhiệm vụ chúng tôi là chặt lá dừa của những cây dừa còn tấp ngang cổ người. Ui chao, chặt xong một liếp dừa thì bị đàn kiến lửa vàng ở đâu chúng bu quanh tấn công một trận, ai cũng đau quá cỡ. Nhưng đã nhận việc thì phải làm cho hết việc. Ấy thế mà một ngày làm việc mỗi người chỉ được có 5 baht và một chai nước mắm con mực! Biết mình bị lợi dụng dã man, nên không ai trong chúng tôi đi làm chặt lá dừa nữa.
Trong nhóm chúng tôi có một người mà chúng tôi quen gọi anh là “Anh Ba Hà Nội”, là một người đặc biệt. Anh Ba người cao ráo, đẹp trai, ăn nói có duyên, mà rất thân thiện. Tôi không thấy anh ấy có cái “chất” của người cộng sản mà tôi từng thấy ở miền Nam sau 1975 chút nào cả. Anh em trong nhóm nói đùa rằng vì anh ấy là “cộng sản Hà Nội”, khác với “cộng sản Hà Lam Linh”! Anh từng là phóng viên báo chí ở Hà Nội, vào Nam khoảng 1976. Anh gặp “duyên mới” trong Nam, và hai anh chị quyết định đi vượt biên. Anh Ba Hà Nội là phóng viên, nên ăn nói rất hay. Ở anh, không bao giờ hết chuyện, anh kể biết bao nhiêu chuyện anh từng chứng kiến trong đời làm báo của mình. Toàn những chuyện mà thời đó có thể xem là “phản động” mà anh thề là có thật. Sau này, đọc báo trong nước tôi mới biết những gì anh nói về cuộc sống cơ cực thời bao cấp ở miền Bắc là hoàn toàn thật. Là người lớn lên ở trong Nam, tôi không ngờ người ta có thể sống khổ cực như thế.
Trong thời gian ở bờ biển Budi này, chúng tôi có "hân hạnh" đón tiếp hai chiếc tàu đồng hương khác cập bến. Nhóm đầu chỉ có 10 người, toàn trai tráng, nguyên là thủy thủ của một công ti hải sản ở một tỉnh miền Nam lấy tàu đi vượt biên. Nhóm thứ hai đông hơn, có khoảng 50 người, bị cướp ngoài khơi đến 3 lần và trôi dạt vào đây. Hoàn cảnh xa quê hương và vì mục tiêu sống sót trước một vùng đất xa lạ đã làm cho chúng tôi trở thành gần gũi và thân nhau rất nhanh chóng, chẳng khác gì những người cùng đi chung tàu.
Trong 2 tàu mới, có một người rất đặc biệt, mà chúng tôi cho đến nay vẫn không biết tên, chỉ hay gọi là “Chú Ba Trung tá”. Sở dĩ chú có nickname đó là vì chú từng là trung tá không quân trong quân đội VNCH. Chú cũng là người gốc Bình Định, chẳng biết lúc đó bao nhiêu tuổi, nhưng tóc bạc gần hết, đi một mình và nghèo "rớt mồng tơi" như tôi, nên chúng tôi dễ dàng thông cảm nhau. Suốt ngày, chú chỉ mặc mỗi cái quần xà lỏn và ở trần hùi hụi, rong chơi, tán gẫu, kể chuyện tiếu lâm. Chú Ba Trung tá từng học ở Mĩ 3 năm, nên chú nói tiếng Anh giỏi. Giọng tiếng Anh của chú rất … Mĩ. Nghe và nhìn cách chú nói chuyện với các viên chức người Thái mà tôi, với một trình độ lôm côm về tiếng Anh, phục sát đất, và nghĩ không biết bao giờ mình mới nói được như chú ấy. Có lần, một người Thái khen chú nói tiếng Anh giỏi, nhưng chú quay lại cười nói với chúng tôi [trước mặt người khen đó]: "Tao nói tiếng Anh giọng nước mắm thì nhằm nhò gì, thằng mọi này nó dốt mới khen tao vậy chớ ..." Tôi nhớ chính xác chú dùng chữ “thằng mọi này”. Tôi thích cái thái độ tự tin đến nổi trịch thượng của chú đối với người Thái. Nhưng tôi cũng lo lắng là biết bao giờ tôi mới có khả năng nói tiếng Anh như chú ấy!
Nhờ Chú Ba Trung tá, tất cả 3 nhóm tàu tị nạn làm thủ tục UNHCR một cách êm xuôi. Sau gần 2 tháng ở Budi, cả 3 nhóm người chúng tôi được chuyển lên một trại tị nạn qui mô ở tỉnh Songkhla. Tạm biệt Budi, và nhất là tạm biệt ông chủ của tôi, tôi cảm thấy buồn ơi là buồn. Dù biết rằng mình không ở đó lâu dài, nhưng khi rời cái làng chài êm ả đã cho tôi tạm trú những ngày đầu tị nạn vẫn làm tôi thấy buồn. Lúc lên xe rời làng, tôi tự nguyện trong lòng một ngày nào đó tôi sẽ trở lại, sẽ cám ơn chân thành người chủ ghe chài đã cho tôi công việc đầu tiên trên xứ Thái để kiếm tiền, tôi sẽ cám ơn những người dân làng đã cưu mang chúng tôi một thời gian. Ấy thế mà đến hôm nay, 30 năm sau, tôi vẫn chưa có dịp về thăm lại cái làng chài đó. Không biết bây giờ ông chủ tôi còn sống hay đã qua đời, cái nhà sàn của ông bây giờ ra sao, và nhất là làng chài đó vẫn như thế hay đã thành một resort cho khách du lịch …
Songkhla là một tỉnh thuộc miền nam Thái Lan (Songkhla là tên của một hoàng tử Thái). Trại tị nạn Songkhla nằm ngay bên cạnh bờ biển khá đẹp, được bao bọc bởi một dãy núi phía sau và dĩ nhiên là xung quanh được rào bằng kẻm gai. Nhà, hay nói đúng hơn là chòi, mọc lên san sát. Nếu tôi nhớ không lầm, chiều ngang của trại chỉ khoảng 50 thước, chiều dài thì đi bộ chỉ 15 phút là hết. Ấy thế mà trại này lại là nhà cho trung bình khoảng 5,000 dân tỵ nạn hàng ngày; nghe nói lúc cao điểm, dân số trong trại lên đến cả 10,000 người!
Ngày đầu tiên nhập trại Songkhla, tôi tưởng mình lạc vào một thành phố ở Việt Nam! Hai bên đường chật hẹp là hàng quán bán cơm, phở, hủ tiếu, cà phê, mọc lên đầy rẫy. Phần đông khách hàng là những chàng trai mặt mũi rất "ngầu", tóc dài chấm vai (nom y như những người đóng vai du côn trong các phim xã hội đen) phì phèo những điếu thuốc lá "Samit" hay "555" bên li cà phê đen. Họ cũng là dân tị nạn như tôi thôi. Phía trong quán thì ồn ào đài loa với những bản nhạc vàng ảo não, nhạc rock xập xình, nhạc nhà binh hùng tráng, nhạc chống cộng, v.v... được phát thanh với một âm lượng tối đa, làm đinh tai nhức óc những ai không may mắn phải đứng trước những cặp loa này. Trên đường lộ dập dìu tài tử giai nhân son phấn lòe loẹt, vàng đeo lóng lánh, trong những bộ quần áo thời trang Âu Mĩ đắc tiền đi "dạo phố" như trẫy hội. Tôi ngạc nhiên và tự hỏi không biết tiền đâu ra mà họ lại có cuộc sống khá sung túc như vậy ở một trại tạm dung. Nhìn lại mình chỉ có cái quần đùi và cái áo của ông chủ cho trên người. Vốn được chuyển lên đây từ một làmg quê, tôi cảm thấy mình vừa quê mùa vừa bơ vơ lạc lõng như một thành phần "outcast" trong "xã hội" tị nạn này. Nhiều khi đi qua các hàng quán, thỉnh thoảng nghe một đoạn nhạc do chính Nguyệt Ánh sáng tác và ca:
Ôi me yêu ơi,
con lang thang giữa phố đông người;
Tuy phố đông người,
Nhưng con lạc loài một bóng đơn côi ...
hay
Nắng nơi đây vẫn là nắng ấm
Nhưng ấm sao bằng nắng ấm quê hương
mà buồn vời vợi ...
Nhưng, qua tìm hiểu tôi mới thấy những phồn vinh, náo nhiệt kia chẳng khác gì những lớp phấn son được sơn trét lên mặt những cô gái một cách vội vã để cố tình xóa lấp đi những nỗi ám ảnh của một quá khứ quá khủng khiếp. Thực vậy, lên đến Songkhla và có dịp nghe những câu chuyện thương tâm khác của đồng hương, tôi mới thấy chuyến đi của mình còn may mắn chán. Tôi nghe nhiều câu chuyện về cướp biển vô cùng khủng khiếp, mà chữ nghĩa có khi không tả hết được những tang thương người Việt Nam mình đã gánh chịu. Có nhiều trường hợp cả tàu bị thảm sát trên biển cả. Có trường hợp bọn cướp biển làm nhục phụ nữ ngay trước mặt người thân. Nhiều người bị bệnh tâm thần khi lên đến trại này. Tôi không nghĩ là mình có thể quên được những câu chuyện thương tâm của nạn nhân bọn cướp biển Thái Lan. Nếu tôi phải dùng một từ ngữ mạnh, đó là: không bao giờ quên và cũng không bao giờ tha thứ. Có thể nói tội ác của người Thái đối với người tỵ nạn Việt Nam sánh tương đương với bọn Đức Quốc Xã đối với người Do Thái, với bọn Pol Pot với dân Campuchea. Thế giới đã nghe nhiều về “holocaust”, "killing field" (cánh đồng chết chóc) nhưng thế giới chưa nghe hay biết nhiều về "killing sea" (sát hải). Vùng biển Thái Lan là nơi đã từng chôn vùi biết bao thân xác của đồng hương ta. Sau này, tôi có viết một bài trên báo Sydney Morning Herald để nhắc thế giới về những thảm cảnh của người tị nạn Việt Nam ở Thái Lan trong thập niên 1980s mà tôi gọi là “killing sea”. Bài viết được trao giải thưởng gì đó (tôi quên) và tôi được tặng 500 đôla Úc!
Bị người ngoại bang sát hại đã là một sự nhục nhã, nhưng bị chính người tị nạn hành hạ lại còn nhục nhã và đau lòng hơn. Songkhla là nơi mà tôi đã chứng kiến những hành động xấu xa và dã man của những người Việt đối với người Việt. Ngày đầu vào trại, ngoài nhóm của chúng tôi đến từ Budi, còn có nhiều nhóm tị nạn từ các nơi xa xôi khác được chuyển về bằng xe bus. Từ ngoài cổng, chúng tôi đi vào vào trại chầm chậm theo hàng hai. Hai bên đường có đầy đồng hương đứng xem và ồn ào như một cái chợ. Người thì dán mắt tìm xem có thân nhân, bà con của mình mới sang không; người thì dò xét, nhận diện xem có kẻ thù năm xửa năm xưa nào đến trại hay không. Người có thân nhân thì nước mắt dàn dụa tay bắt mặt mừng. Người tìm được kẻ thù thì trở thành một kẻ hung bạo, tàn ác. Hôm tôi nhập trại, có một anh thanh niên nọ bị tố cáo là "cộng sản", anh ta bị lôi kéo ra khỏi hàng, và bị đánh ngay trên đường vào trại, trước sự mục kích của người đứng hai bên đường. Thấy không ai can ngăn và vì không chịu được cảnh tượng như thế, tôi bước ra hàng định cản, nhưng một trong ba người đang hành hung dí ngón tay vào trán tôi gằn từng tiếng (mà tôi nhớ y như ngày hôm qua): "Đ M, muốn gì? Mày cũng là cộng sản hả?". Anh tôi lôi ra ngoài, chứ không thì chắc tôi cũng bị đánh tơi bời ngày hôm đó. Anh thanh niên đó bị đánh đến nổi không còn đi được, chở vào nhà thương điều trị, và nghe nói sau này anh bị tật. Đó là lần đầu tiên tôi mục kích cảnh người đánh người tàn bạo, không thương tiếc như thế. Ngày xưa, chính tôi cũng từng bị cảnh sát đánh vài dùi cui cảnh cáo, chứ không đến nổi quá tàn nhẫn như vậy.
Sau cú sốc đó, tôi lại bị một cú sốc khác lớn hơn. Sau khi nhập trại, chúng tôi được dẫn độ vào một hội trường có nhân viên của Ban Trật Tự người Việt canh giữ chung quanh. Họ đóng cửa chính lại, nhưng phía ngoài cửa sổ thì có đầy người đứng xem. Mục đích của buổi họp này là nhằm phổ biến về nội qui sinh hoạt trong trại, nhưng thực tế thì lại là một cuộc thăm dò tìm kẻ thù, một trò khủng bố tinh thần. Người trên bục giảng là một ông chức sắc trong ban quản trị của trại và cũng là cựu quân nhân; bằng một giọng nói Bắc kì nghiêm trọng và vẻ mặt đằng đằng sát khí, ông ta yêu cầu chúng tôi phải khai báo thành khẩn là đã làm việc gì với chế độ cộng sản. Ông ta nói thêm rằng nếu không khai thì tình báo của ông ta cũng biết thôi, nhưng khai thì sẽ được khoan hồng. Tôi rất ngạc nhiên về thủ tục này, vì nghĩ là tất cả lời khai của mình đều đã được nhân viên Cao ủy Tị nạn LHQ ghi chép ở Budi; thế thì cuộc khai báo này là khai với ai? Tuy nhiên, tôi nghĩ vì từng làm với chế độ mới một thời gian, nên cũng định khai báo cho rõ ràng. Nhưng hôm đó, may mắn cho tôi: một người em họ nhập trại trước tôi vài tháng đang đứng bên cạnh cửa sổ và đưa tay làm kí hiệu cho tôi biết là đừng khai. Anh Ba Hà Nội ngồi cạnh tôi và có lẽ có kinh nghiệm hơn tôi về những trò này, cũng khuyên tôi là cứ lờ đi cái "lí lịch cộng sản" đó. Tôi và anh Ba Hà Nội thoát nạn. Nhưng không may mắn cho những người khác, trong đó có hai anh bạn của tôi, T và S trong tàu "Hải sản" từ Budi lên, những người đã thành thật khai báo là có làm việc sau 1975 như là tài công và thủy thủ. Hai anh bạn tôi, liền sau đó được "mời" lên Ban Trật Tự "làm việc". Cả hai bị đánh nhừ tử. Mặt mũi hai anh này bị sưng húp lên, mắt thì bầm, nhưng ánh mắt đầy vẻ hận thù. Tối hôm đó, tôi nằm ngủ bên cạnh hai anh phía ngoài căn chòi bên cái giếng nước, nghe anh T thề rằng sẽ có ngày trả thù bọn người mà anh ta cho là "lũ chó đẻ". Tôi ngao ngán cho số phận tị nạn. Hết bị người Thái hành hạ, giờ đến bị nhóm người đồng hương tự nhận là "yêu chuộng tự do" đánh đập. Sau lần T và S bị đánh, có một anh cựu sĩ quan đi chung thuyền với tôi, lân la tìm chỗ tôi trú ngụ và nói bâng quơ "Tao mà nói ra thì có thằng còn bị đánh nữa!" Ý anh ta muốn nói tôi và anh Ba Hà Nội. Tôi kinh tởm cho anh chàng sĩ quan này, vì anh ta là người "đi ké", và bị chê là hèn khi đi trên ghe và lười lao động khi ở Budi mà giờ này trở mặt mau như thế!
Có thể nói trại tị nạn Songkhla là một VNCH thu nhỏ. Nếu ngày xưa VNCH có tổng thống thì trại Songkhla có trưởng trại; ngày xưa có Bộ Nội vụ thì ngày nay có "Ban Trật tự"; Bộ Thông tin Văn hóa nay được được "đổi tên" thành "Ban Thông tin Văn hóa"; các anh quân nhân, sĩ quan VNCH ngày xưa nay trở thành "cựu quân nhân", có người còn tự cho mình lên chức (xưa là trung úy nay thành đại úy!) Ngày xưa VNCH có hối lộ và tham nhũng, thì ngày nay ngay trong trại tị nạn, cũng có tham ô và hối lộ. Có khi cường độ tham nhũng còn trắng trợn và tàn bạo hơn. Theo qui chế của UNHCR lúc đó, chúng tôi, những người mới nhập trại, đáng lẽ được cấp cho một cái áo thun, một cái quần, và vài lít gạo để sống. Nhưng nhóm Budi của chúng tôi chẳng được một món nào. Biết được người em họ nhập trại trước tôi đang làm trong ban phân phát hàng hóa, tôi hỏi nó tại sao tôi không được phát gì cả. Thằng em tôi ôm bụng cười ha hả như chưa bao giờ vui hơn, và nói đại ý là "Ở đây, bọn nó bán hết rồi, anh làm gì có được mấy thứ đó! Anh có tiền thì mới mua được." Tôi càng ngao ngán hơn và nghĩ chả lẽ mình phải chết đói ở đây. Nhưng thằng em tôi chạy đi đâu một lúc và mang về ba lít gạo cho anh em tôi đủ sống ít ngày. Ở trại tị nạn, Ban Bưu Tín cũng là một trung tâm khét tiếng ăn chận, ăn cắp hay nói đúng hơn là ăn cướp, tiền bạc của người tị nạn. Có nhiều thư từ và tiền bạc từ nước ngoài chẳng bao giờ tới tay thân nhân trong trại. Tôi cũng là một nạn nhân của ban Bưu Tín này. Và nếu có tới người thân thì cũng bị cắt xén, ăn chận. Trong khi các Ban có cơ hội ăn hối lộ, ăn chận đồng hương thì cũng có ban chuyên hành hạ đồng hương. Ban Trật Tự ở trại có lẽ là một nhóm người có thể nói là hung thần ác quỉ, là những người tay sai lưu manh cho bọn người Thái, chuyên khủng bố đồng hương. Họ đánh người một cách chuyên nghiệp, không nương tay, và vô cùng tàn nhẫn. Có tên còn lập công với cảnh sát Thái bằng những phương pháp tra tấn "hiện đại", hay thậm chí dẫn gái cho bọn chủ Thái của chúng hành lạc. Không biết bao nhiêu người tị nạn vô tội đã là nạn nhân của nhóm người ác độc này. Thù oàn nối tiếp thù oán. Những người đánh đập đồng hương cũng đi tị nạn ở nước thứ ba, nên một số họ không may mắn trốn thoát nạn nhân của mình thì bị đánh đập dã man ngay tại Úc, tại Mĩ; còn số khác thì xa lánh cộng đồng, vì sợ gặp nạn nhân cũ sẽ trả thù.
Nhưng tất cả đã là dĩ vãng. Hôm nay, nhớ lại những ngày cũ nên viết ra như là một vài “chứng từ” của một thời đau khổ, chứ chẳng phải trách móc ai. Không thể trả thù bằng sự thù hận. Nói như một hiền nhân nào đó: nếu mắt trả mắt thì thế giới này chỉ còn lại nhưng kẻ mù. Những thù hận trong trại tị nạn bây giờ cũng đã qua đi với thời gian và với cuộc sống ổn định. Nhưng vẫn còn khoảng cách giữa những người Việt trong nước và ngoài nước. Hi vọng rằng trong tương lai gần, khoảng cách này không còn nữa nếu tất cả chúng ta đều đặt dân tộc và quyền lợi dân tộc trên và trước những chủ nghĩa giáo điều phi dân tộc.
NVT
Sau 3 ngày đêm lên đênh trên biển, ghe chúng tôi gồm 23 người cập bến Budi. Budi, sau này tôi mới biết là một làng chài ở phía nam Thái Lan, giáp biên giới Mã Lai. Budi không phải là lựa chọn của chúng tôi. Thật ra, lúc ra đi, đâu ai biết ghe mình sẽ đến đâu. Chỉ mong rằng nếu may mắn thì sẽ đến một vùng đất nào đó thuộc các nước Đông Nam Á có trại tị nạn của Cao ủy Tị nạn Liên hiệp quốc (UNHCR) hay được một tàu hàng ngoại quốc thương tình cứu vớt; còn nếu không may mắn thì sẽ bỏ mạng trên biển. Chúng tôi sẵn sàng chết. Nhưng ghe chúng tôi may mắn. Khi nhìn thấy đất liền từ xa, tài công quyết định mở hết ga hai cái máy dầu trực chỉ thẳng đến đó. Chưa đến nơi thì gặp thuyền đánh cá của người địa phương, họ lấy hết dầu, hết gạo, và dĩ nhiên là luôn tài sản trên ghe, rồi chỉ đường cho chúng tôi vào bờ. Gần đến bờ thì ghe hết dầu, và chúng tôi phải lội (nếu ai biết lội) và giúp nhau bồng bế vào đất liền.
Lên bờ. Mừng hết lớn. Sau 3 ngày đêm trên chiếc ghe vốn được đóng để đi sông (chứ không đi biển) mà sống sót như thế thì quả là quá may mắn. Đói. Khát. Nhọc nhằn. Chúng tôi mệt nhừ. Có vài chị khi lên bờ chỉ biết nằm lăn ra vì đói quá. Nhìn toàn cảnh thật là thảm thương, vì ai cũng mặt mũi đen sậm (sau mấy ngày phơi nắng biển), quần áo lếch thếch, chẳng có giầy dép gì cả. Riêng tôi thì chỉ còn cái quần đùi và cái áo sơmi đã biến thành màu đen sau mấy ngày gần buồng máy.
Lên đến bờ chúng tôi chẳng biết làm gì. Đây là chiếc ghe tị nạn đầu tiên từ Việt Nam ghé đến làng này, cho nên người dân trong làng chài cũng chẳng biết làm gì. Thế là họ chạy đi kêu cảnh sát đến giải quyết. Cảnh sát địa phương đến, và việc đầu tiên là họ tìm một chỗ cho chúng tôi tá túc. Ở xã đâu có nhà tù nào chứa đến 23 người, cho nên cuối cùng thì họ sắp xếp cho chúng tôi tạm trú ngoài trời, trong một vườn dừa tại một bờ biển cách chỗ chúng tôi đổ bộ chỉ chừng vài trăm mét. Vì chúng tôi là nhóm người Việt đầu tiên đã lạc đến làng chài này, dân làng địa phương tò mò kéo đến vây quanh kín mít để ... nhìn mặt. Khác với những con người hung bạo mà chúng tôi gặp trên biển cả, họ là những người dân chài hiền lành, chất phác, luôn có nụ cười trên môi. Mặc dù khác biệt về ngôn ngữ và trở ngại trong trao đổi bằng tiếng Anh, dân chúng ở làng này, nói chung, đã đối xử với chúng tôi trong tình người trong lúc hoạn nạn: khi mới lên bờ, họ mang quần áo, gạo và thức ăn cho chúng tôi sống qua ngày. Chúng tôi có được 3 cái mùng để ngủ ban đêm.
Tuy nhiên, những ngày đầu cũng xảy ra vài chuyện cười ra nước mắt. Khi đêm đến, hàng đoàn đàn ông con trai trong làng vận xà-rông kéo nhau tới ngồi xổm, hai tay chống lên cầm, phì phèo thuốc lá và … trố mắt nhìn chúng tôi như nhìn những sinh vật xa lạ! Có người còn bạo dạn giở trò sàm sở [hay thân mật] lại gần sờ tay chân đàn bà con gái, gây ra náo loạn trong nhóm. Đám đàn ông và thanh niên nhận thấy tình thế không mấy an toàn, nên chúng tôi quyết định phải bảo vệ phái yếu. Ban ngày, một nhóm người đi làm kiếm gạo, cá và nước mắm, còn một nhóm đàn ông thì ở lại để bảo vệ. Ban đêm, chúng tôi ngủ vòng ngoài, phụ nữ ngủ vòng trong. Ấy vậy mà đêm thứ hai có một tên nào đó lại gần đưa tay sờ mó gặp nhằm anh thanh niên kia, anh ta “dằn” cho một trận và tên đó chạy mất trong đêm tối.
Chúng tôi ở đó gần 1 tuần mà chẳng có ai đến lấy lời khai. Sau này tôi mới biết là họ chờ nhân viên UNHCR xuống để làm thủ tục, còn cảnh sát địa phương chỉ quản lí chúng tôi ở đó. Trong khi chờ đợi, chúng tôi mỗi người đi kiếm việc làm. Mà, trong làng này thì có nhiều việc làm lắm. Người thì đi gở lưới cá cho dân làng, người đi chặt lá dừa (làng này có rất nhiều dừa), người thì đi đổ bêtông ở làng bên, v.v… Riêng tôi thì có một gia đình dân chài mướn làm thuê cho họ. Công việc của tôi là đi theo ghe câu ban đêm, và sáng về thì phụ giúp đem cá mực lên nhà, rồi từ đó họ đem đi bán ở chợ. Nhớ đêm đầu khi được biết mình sẽ đi chung với người chủ tôi rất lo lắng và thủ sẵn. Chiếc ghe chỉ có tôi và ông chủ. Hai người không nói được gì với nhau, ngoài ra dấu tay. Tôi nghe đến mấy vụ hải tặc giết người, nên cũng nghĩ linh tinh rằng biết đâu ông này muốn thủ tiêu mình. Tôi bày tỏ quan ngại này với anh em trong tàu, thì mấy người có kinh nghiệm đi biển chỉ cho tôi vài “mẹo” để sống sót. Họ chỉ cho tôi rằng khi đi biển với ông chủ, trong khi ông chủ giữ tay máy, tôi lúc nào cũng tìm cách ngồi gần nơi có “vũ khí”, để phòng ngừa nếu ông ấy ra tay thì tôi sẽ ra tay trước. Có gì thì cả hai cùng chết, chứ dứt khoát không chết một cách vô duyên được. Nhưng tôi và các bạn tôi quá lo xa, nghĩ xấu cho người ta, chứ trong thực tế ông chủ rất tốt với tôi. Những buổi chiều lên ghe ra biển, lúc nào cũng nhìn tôi với ánh mắt trìu mến. Cho đến nay tôi vẫn nhớ ánh mắt đó. Đi được hai ba đêm, tôi không còn nghi ngờ gì ông ta nữa. Sau này chúng tôi trở thành thân quen. Thấy tôi không có quần áo, ông ta cho mấy bộ đồ cũ; có bộ tôi còn giữ cho đến ngày nay, tức 30 năm rồi. Mỗi ngày, ông ta cho tôi một chai nước mắm, vài gói mì tôm, và vài lít gạo. Tôi đem những “chiến lợi phẩm” đó về để đóng góp với mấy anh em khác trong cuộc sống tập thể.
Cũng có khi chúng tôi bị lạm dụng. Thấy đám tị nạn chúng tôi chẳng có đồng xu dính túi, nên dân làng tìm đến chúng tôi như là một nguồn lao động rẻ. Có hôm tôi đi với mấy anh bạn khác đi chặt lá dừa. Chao ôi, vào đến vườn dừa mênh mông của họ, tôi choáng ngộp qui mô trồng dừa ở đây, và nhìn lại mấy cây dừa trong làng quê mình chẳng có ý nghĩa gì cả. Những cây dừa rất cao và thẳng thấp, được trồng một cách rất thứ tự, và nhìn toàn cảnh rất đẹp mắt. Ở đây, họ cho khỉ leo dừa, chứ người khó mà leo những cây dừa cao như thế. Nhiệm vụ chúng tôi là chặt lá dừa của những cây dừa còn tấp ngang cổ người. Ui chao, chặt xong một liếp dừa thì bị đàn kiến lửa vàng ở đâu chúng bu quanh tấn công một trận, ai cũng đau quá cỡ. Nhưng đã nhận việc thì phải làm cho hết việc. Ấy thế mà một ngày làm việc mỗi người chỉ được có 5 baht và một chai nước mắm con mực! Biết mình bị lợi dụng dã man, nên không ai trong chúng tôi đi làm chặt lá dừa nữa.
Trong nhóm chúng tôi có một người mà chúng tôi quen gọi anh là “Anh Ba Hà Nội”, là một người đặc biệt. Anh Ba người cao ráo, đẹp trai, ăn nói có duyên, mà rất thân thiện. Tôi không thấy anh ấy có cái “chất” của người cộng sản mà tôi từng thấy ở miền Nam sau 1975 chút nào cả. Anh em trong nhóm nói đùa rằng vì anh ấy là “cộng sản Hà Nội”, khác với “cộng sản Hà Lam Linh”! Anh từng là phóng viên báo chí ở Hà Nội, vào Nam khoảng 1976. Anh gặp “duyên mới” trong Nam, và hai anh chị quyết định đi vượt biên. Anh Ba Hà Nội là phóng viên, nên ăn nói rất hay. Ở anh, không bao giờ hết chuyện, anh kể biết bao nhiêu chuyện anh từng chứng kiến trong đời làm báo của mình. Toàn những chuyện mà thời đó có thể xem là “phản động” mà anh thề là có thật. Sau này, đọc báo trong nước tôi mới biết những gì anh nói về cuộc sống cơ cực thời bao cấp ở miền Bắc là hoàn toàn thật. Là người lớn lên ở trong Nam, tôi không ngờ người ta có thể sống khổ cực như thế.
Trong thời gian ở bờ biển Budi này, chúng tôi có "hân hạnh" đón tiếp hai chiếc tàu đồng hương khác cập bến. Nhóm đầu chỉ có 10 người, toàn trai tráng, nguyên là thủy thủ của một công ti hải sản ở một tỉnh miền Nam lấy tàu đi vượt biên. Nhóm thứ hai đông hơn, có khoảng 50 người, bị cướp ngoài khơi đến 3 lần và trôi dạt vào đây. Hoàn cảnh xa quê hương và vì mục tiêu sống sót trước một vùng đất xa lạ đã làm cho chúng tôi trở thành gần gũi và thân nhau rất nhanh chóng, chẳng khác gì những người cùng đi chung tàu.
Trong 2 tàu mới, có một người rất đặc biệt, mà chúng tôi cho đến nay vẫn không biết tên, chỉ hay gọi là “Chú Ba Trung tá”. Sở dĩ chú có nickname đó là vì chú từng là trung tá không quân trong quân đội VNCH. Chú cũng là người gốc Bình Định, chẳng biết lúc đó bao nhiêu tuổi, nhưng tóc bạc gần hết, đi một mình và nghèo "rớt mồng tơi" như tôi, nên chúng tôi dễ dàng thông cảm nhau. Suốt ngày, chú chỉ mặc mỗi cái quần xà lỏn và ở trần hùi hụi, rong chơi, tán gẫu, kể chuyện tiếu lâm. Chú Ba Trung tá từng học ở Mĩ 3 năm, nên chú nói tiếng Anh giỏi. Giọng tiếng Anh của chú rất … Mĩ. Nghe và nhìn cách chú nói chuyện với các viên chức người Thái mà tôi, với một trình độ lôm côm về tiếng Anh, phục sát đất, và nghĩ không biết bao giờ mình mới nói được như chú ấy. Có lần, một người Thái khen chú nói tiếng Anh giỏi, nhưng chú quay lại cười nói với chúng tôi [trước mặt người khen đó]: "Tao nói tiếng Anh giọng nước mắm thì nhằm nhò gì, thằng mọi này nó dốt mới khen tao vậy chớ ..." Tôi nhớ chính xác chú dùng chữ “thằng mọi này”. Tôi thích cái thái độ tự tin đến nổi trịch thượng của chú đối với người Thái. Nhưng tôi cũng lo lắng là biết bao giờ tôi mới có khả năng nói tiếng Anh như chú ấy!
Nhờ Chú Ba Trung tá, tất cả 3 nhóm tàu tị nạn làm thủ tục UNHCR một cách êm xuôi. Sau gần 2 tháng ở Budi, cả 3 nhóm người chúng tôi được chuyển lên một trại tị nạn qui mô ở tỉnh Songkhla. Tạm biệt Budi, và nhất là tạm biệt ông chủ của tôi, tôi cảm thấy buồn ơi là buồn. Dù biết rằng mình không ở đó lâu dài, nhưng khi rời cái làng chài êm ả đã cho tôi tạm trú những ngày đầu tị nạn vẫn làm tôi thấy buồn. Lúc lên xe rời làng, tôi tự nguyện trong lòng một ngày nào đó tôi sẽ trở lại, sẽ cám ơn chân thành người chủ ghe chài đã cho tôi công việc đầu tiên trên xứ Thái để kiếm tiền, tôi sẽ cám ơn những người dân làng đã cưu mang chúng tôi một thời gian. Ấy thế mà đến hôm nay, 30 năm sau, tôi vẫn chưa có dịp về thăm lại cái làng chài đó. Không biết bây giờ ông chủ tôi còn sống hay đã qua đời, cái nhà sàn của ông bây giờ ra sao, và nhất là làng chài đó vẫn như thế hay đã thành một resort cho khách du lịch …
Songkhla là một tỉnh thuộc miền nam Thái Lan (Songkhla là tên của một hoàng tử Thái). Trại tị nạn Songkhla nằm ngay bên cạnh bờ biển khá đẹp, được bao bọc bởi một dãy núi phía sau và dĩ nhiên là xung quanh được rào bằng kẻm gai. Nhà, hay nói đúng hơn là chòi, mọc lên san sát. Nếu tôi nhớ không lầm, chiều ngang của trại chỉ khoảng 50 thước, chiều dài thì đi bộ chỉ 15 phút là hết. Ấy thế mà trại này lại là nhà cho trung bình khoảng 5,000 dân tỵ nạn hàng ngày; nghe nói lúc cao điểm, dân số trong trại lên đến cả 10,000 người!
Ngày đầu tiên nhập trại Songkhla, tôi tưởng mình lạc vào một thành phố ở Việt Nam! Hai bên đường chật hẹp là hàng quán bán cơm, phở, hủ tiếu, cà phê, mọc lên đầy rẫy. Phần đông khách hàng là những chàng trai mặt mũi rất "ngầu", tóc dài chấm vai (nom y như những người đóng vai du côn trong các phim xã hội đen) phì phèo những điếu thuốc lá "Samit" hay "555" bên li cà phê đen. Họ cũng là dân tị nạn như tôi thôi. Phía trong quán thì ồn ào đài loa với những bản nhạc vàng ảo não, nhạc rock xập xình, nhạc nhà binh hùng tráng, nhạc chống cộng, v.v... được phát thanh với một âm lượng tối đa, làm đinh tai nhức óc những ai không may mắn phải đứng trước những cặp loa này. Trên đường lộ dập dìu tài tử giai nhân son phấn lòe loẹt, vàng đeo lóng lánh, trong những bộ quần áo thời trang Âu Mĩ đắc tiền đi "dạo phố" như trẫy hội. Tôi ngạc nhiên và tự hỏi không biết tiền đâu ra mà họ lại có cuộc sống khá sung túc như vậy ở một trại tạm dung. Nhìn lại mình chỉ có cái quần đùi và cái áo của ông chủ cho trên người. Vốn được chuyển lên đây từ một làmg quê, tôi cảm thấy mình vừa quê mùa vừa bơ vơ lạc lõng như một thành phần "outcast" trong "xã hội" tị nạn này. Nhiều khi đi qua các hàng quán, thỉnh thoảng nghe một đoạn nhạc do chính Nguyệt Ánh sáng tác và ca:
Ôi me yêu ơi,
con lang thang giữa phố đông người;
Tuy phố đông người,
Nhưng con lạc loài một bóng đơn côi ...
hay
Nắng nơi đây vẫn là nắng ấm
Nhưng ấm sao bằng nắng ấm quê hương
mà buồn vời vợi ...
Nhưng, qua tìm hiểu tôi mới thấy những phồn vinh, náo nhiệt kia chẳng khác gì những lớp phấn son được sơn trét lên mặt những cô gái một cách vội vã để cố tình xóa lấp đi những nỗi ám ảnh của một quá khứ quá khủng khiếp. Thực vậy, lên đến Songkhla và có dịp nghe những câu chuyện thương tâm khác của đồng hương, tôi mới thấy chuyến đi của mình còn may mắn chán. Tôi nghe nhiều câu chuyện về cướp biển vô cùng khủng khiếp, mà chữ nghĩa có khi không tả hết được những tang thương người Việt Nam mình đã gánh chịu. Có nhiều trường hợp cả tàu bị thảm sát trên biển cả. Có trường hợp bọn cướp biển làm nhục phụ nữ ngay trước mặt người thân. Nhiều người bị bệnh tâm thần khi lên đến trại này. Tôi không nghĩ là mình có thể quên được những câu chuyện thương tâm của nạn nhân bọn cướp biển Thái Lan. Nếu tôi phải dùng một từ ngữ mạnh, đó là: không bao giờ quên và cũng không bao giờ tha thứ. Có thể nói tội ác của người Thái đối với người tỵ nạn Việt Nam sánh tương đương với bọn Đức Quốc Xã đối với người Do Thái, với bọn Pol Pot với dân Campuchea. Thế giới đã nghe nhiều về “holocaust”, "killing field" (cánh đồng chết chóc) nhưng thế giới chưa nghe hay biết nhiều về "killing sea" (sát hải). Vùng biển Thái Lan là nơi đã từng chôn vùi biết bao thân xác của đồng hương ta. Sau này, tôi có viết một bài trên báo Sydney Morning Herald để nhắc thế giới về những thảm cảnh của người tị nạn Việt Nam ở Thái Lan trong thập niên 1980s mà tôi gọi là “killing sea”. Bài viết được trao giải thưởng gì đó (tôi quên) và tôi được tặng 500 đôla Úc!
Bị người ngoại bang sát hại đã là một sự nhục nhã, nhưng bị chính người tị nạn hành hạ lại còn nhục nhã và đau lòng hơn. Songkhla là nơi mà tôi đã chứng kiến những hành động xấu xa và dã man của những người Việt đối với người Việt. Ngày đầu vào trại, ngoài nhóm của chúng tôi đến từ Budi, còn có nhiều nhóm tị nạn từ các nơi xa xôi khác được chuyển về bằng xe bus. Từ ngoài cổng, chúng tôi đi vào vào trại chầm chậm theo hàng hai. Hai bên đường có đầy đồng hương đứng xem và ồn ào như một cái chợ. Người thì dán mắt tìm xem có thân nhân, bà con của mình mới sang không; người thì dò xét, nhận diện xem có kẻ thù năm xửa năm xưa nào đến trại hay không. Người có thân nhân thì nước mắt dàn dụa tay bắt mặt mừng. Người tìm được kẻ thù thì trở thành một kẻ hung bạo, tàn ác. Hôm tôi nhập trại, có một anh thanh niên nọ bị tố cáo là "cộng sản", anh ta bị lôi kéo ra khỏi hàng, và bị đánh ngay trên đường vào trại, trước sự mục kích của người đứng hai bên đường. Thấy không ai can ngăn và vì không chịu được cảnh tượng như thế, tôi bước ra hàng định cản, nhưng một trong ba người đang hành hung dí ngón tay vào trán tôi gằn từng tiếng (mà tôi nhớ y như ngày hôm qua): "Đ M, muốn gì? Mày cũng là cộng sản hả?". Anh tôi lôi ra ngoài, chứ không thì chắc tôi cũng bị đánh tơi bời ngày hôm đó. Anh thanh niên đó bị đánh đến nổi không còn đi được, chở vào nhà thương điều trị, và nghe nói sau này anh bị tật. Đó là lần đầu tiên tôi mục kích cảnh người đánh người tàn bạo, không thương tiếc như thế. Ngày xưa, chính tôi cũng từng bị cảnh sát đánh vài dùi cui cảnh cáo, chứ không đến nổi quá tàn nhẫn như vậy.
Sau cú sốc đó, tôi lại bị một cú sốc khác lớn hơn. Sau khi nhập trại, chúng tôi được dẫn độ vào một hội trường có nhân viên của Ban Trật Tự người Việt canh giữ chung quanh. Họ đóng cửa chính lại, nhưng phía ngoài cửa sổ thì có đầy người đứng xem. Mục đích của buổi họp này là nhằm phổ biến về nội qui sinh hoạt trong trại, nhưng thực tế thì lại là một cuộc thăm dò tìm kẻ thù, một trò khủng bố tinh thần. Người trên bục giảng là một ông chức sắc trong ban quản trị của trại và cũng là cựu quân nhân; bằng một giọng nói Bắc kì nghiêm trọng và vẻ mặt đằng đằng sát khí, ông ta yêu cầu chúng tôi phải khai báo thành khẩn là đã làm việc gì với chế độ cộng sản. Ông ta nói thêm rằng nếu không khai thì tình báo của ông ta cũng biết thôi, nhưng khai thì sẽ được khoan hồng. Tôi rất ngạc nhiên về thủ tục này, vì nghĩ là tất cả lời khai của mình đều đã được nhân viên Cao ủy Tị nạn LHQ ghi chép ở Budi; thế thì cuộc khai báo này là khai với ai? Tuy nhiên, tôi nghĩ vì từng làm với chế độ mới một thời gian, nên cũng định khai báo cho rõ ràng. Nhưng hôm đó, may mắn cho tôi: một người em họ nhập trại trước tôi vài tháng đang đứng bên cạnh cửa sổ và đưa tay làm kí hiệu cho tôi biết là đừng khai. Anh Ba Hà Nội ngồi cạnh tôi và có lẽ có kinh nghiệm hơn tôi về những trò này, cũng khuyên tôi là cứ lờ đi cái "lí lịch cộng sản" đó. Tôi và anh Ba Hà Nội thoát nạn. Nhưng không may mắn cho những người khác, trong đó có hai anh bạn của tôi, T và S trong tàu "Hải sản" từ Budi lên, những người đã thành thật khai báo là có làm việc sau 1975 như là tài công và thủy thủ. Hai anh bạn tôi, liền sau đó được "mời" lên Ban Trật Tự "làm việc". Cả hai bị đánh nhừ tử. Mặt mũi hai anh này bị sưng húp lên, mắt thì bầm, nhưng ánh mắt đầy vẻ hận thù. Tối hôm đó, tôi nằm ngủ bên cạnh hai anh phía ngoài căn chòi bên cái giếng nước, nghe anh T thề rằng sẽ có ngày trả thù bọn người mà anh ta cho là "lũ chó đẻ". Tôi ngao ngán cho số phận tị nạn. Hết bị người Thái hành hạ, giờ đến bị nhóm người đồng hương tự nhận là "yêu chuộng tự do" đánh đập. Sau lần T và S bị đánh, có một anh cựu sĩ quan đi chung thuyền với tôi, lân la tìm chỗ tôi trú ngụ và nói bâng quơ "Tao mà nói ra thì có thằng còn bị đánh nữa!" Ý anh ta muốn nói tôi và anh Ba Hà Nội. Tôi kinh tởm cho anh chàng sĩ quan này, vì anh ta là người "đi ké", và bị chê là hèn khi đi trên ghe và lười lao động khi ở Budi mà giờ này trở mặt mau như thế!
Có thể nói trại tị nạn Songkhla là một VNCH thu nhỏ. Nếu ngày xưa VNCH có tổng thống thì trại Songkhla có trưởng trại; ngày xưa có Bộ Nội vụ thì ngày nay có "Ban Trật tự"; Bộ Thông tin Văn hóa nay được được "đổi tên" thành "Ban Thông tin Văn hóa"; các anh quân nhân, sĩ quan VNCH ngày xưa nay trở thành "cựu quân nhân", có người còn tự cho mình lên chức (xưa là trung úy nay thành đại úy!) Ngày xưa VNCH có hối lộ và tham nhũng, thì ngày nay ngay trong trại tị nạn, cũng có tham ô và hối lộ. Có khi cường độ tham nhũng còn trắng trợn và tàn bạo hơn. Theo qui chế của UNHCR lúc đó, chúng tôi, những người mới nhập trại, đáng lẽ được cấp cho một cái áo thun, một cái quần, và vài lít gạo để sống. Nhưng nhóm Budi của chúng tôi chẳng được một món nào. Biết được người em họ nhập trại trước tôi đang làm trong ban phân phát hàng hóa, tôi hỏi nó tại sao tôi không được phát gì cả. Thằng em tôi ôm bụng cười ha hả như chưa bao giờ vui hơn, và nói đại ý là "Ở đây, bọn nó bán hết rồi, anh làm gì có được mấy thứ đó! Anh có tiền thì mới mua được." Tôi càng ngao ngán hơn và nghĩ chả lẽ mình phải chết đói ở đây. Nhưng thằng em tôi chạy đi đâu một lúc và mang về ba lít gạo cho anh em tôi đủ sống ít ngày. Ở trại tị nạn, Ban Bưu Tín cũng là một trung tâm khét tiếng ăn chận, ăn cắp hay nói đúng hơn là ăn cướp, tiền bạc của người tị nạn. Có nhiều thư từ và tiền bạc từ nước ngoài chẳng bao giờ tới tay thân nhân trong trại. Tôi cũng là một nạn nhân của ban Bưu Tín này. Và nếu có tới người thân thì cũng bị cắt xén, ăn chận. Trong khi các Ban có cơ hội ăn hối lộ, ăn chận đồng hương thì cũng có ban chuyên hành hạ đồng hương. Ban Trật Tự ở trại có lẽ là một nhóm người có thể nói là hung thần ác quỉ, là những người tay sai lưu manh cho bọn người Thái, chuyên khủng bố đồng hương. Họ đánh người một cách chuyên nghiệp, không nương tay, và vô cùng tàn nhẫn. Có tên còn lập công với cảnh sát Thái bằng những phương pháp tra tấn "hiện đại", hay thậm chí dẫn gái cho bọn chủ Thái của chúng hành lạc. Không biết bao nhiêu người tị nạn vô tội đã là nạn nhân của nhóm người ác độc này. Thù oàn nối tiếp thù oán. Những người đánh đập đồng hương cũng đi tị nạn ở nước thứ ba, nên một số họ không may mắn trốn thoát nạn nhân của mình thì bị đánh đập dã man ngay tại Úc, tại Mĩ; còn số khác thì xa lánh cộng đồng, vì sợ gặp nạn nhân cũ sẽ trả thù.
Nhưng tất cả đã là dĩ vãng. Hôm nay, nhớ lại những ngày cũ nên viết ra như là một vài “chứng từ” của một thời đau khổ, chứ chẳng phải trách móc ai. Không thể trả thù bằng sự thù hận. Nói như một hiền nhân nào đó: nếu mắt trả mắt thì thế giới này chỉ còn lại nhưng kẻ mù. Những thù hận trong trại tị nạn bây giờ cũng đã qua đi với thời gian và với cuộc sống ổn định. Nhưng vẫn còn khoảng cách giữa những người Việt trong nước và ngoài nước. Hi vọng rằng trong tương lai gần, khoảng cách này không còn nữa nếu tất cả chúng ta đều đặt dân tộc và quyền lợi dân tộc trên và trước những chủ nghĩa giáo điều phi dân tộc.
NVT