Cũng may là tác giả bài báo đặt câu hỏi sau tựa đề “Nhân bản vô tính bắt đầu từ Việt Nam” như là một nghi vấn. Câu trả lời là: Không. Nhân bản vô tính không phải bắt đầu từ Việt Nam. Nhưng tôi nghĩ câu chuyện trong bài báo về một tài năng khoa học không phát huy được trên đất nước mình mới đáng nói hơn. Thật ra, ngay cả bài báo cũng có vài thông tin cần làm rõ …
Bài báo có vẻ muốn nói rằng công nghệ nhân bản vô tính bắt đầu từ VN, nhưng nhận xét đó hoàn toàn sai. Việt Nam không có một công trình về nhân bản vô tính nào cả. Công trình của Gs Nguyễn Mộng Hùng làm ở Nga, Việt Nam không có lí do gì để nói đó là của mình. Thật ra, ngay cả công trình ở Nga vừa đề cập có đăng trên Nature, và dựa vào đó cũng chưa thể nói là thành công trong nhân bản vô tính được. Ngoài ra, bài báo còn có vài điểm cần phải xem lại:
Thứ nhất, Giáo sư Ian Wilmut chưa được trao giải Nobel. Ấy thế mà bài báo mở đầu bằng câu “Nhà sinh học người Anh I.A.Wilmut đã được nhận giải Nobel sau ‘bước đột phá Dodly’”! Xin nói thêm rằng ông Wilmut (nay là Sir Wilmut) là người Tô Cách Lan, chứ không hẳn là người Anh.
Thứ hai, cần nói rõ rằng nhân bản vô tính (cloning) không bắt đầu từ Việt Nam. Không có chuyện đó. Bài báo (Letter) 3 trang trên tập san Nature 1979 (số 280, trang 585-7) của 4 tác giả KG Gasaryan, Nguen Mono Hung, AA Neyfakh, và VV Ivanenkov. Tác giả Nguyễn Mộng Hùng (bài báo viết sai tên) là tác giả thứ hai. Công trình này của Nga, chứ không phải của Việt Nam. Công trình này cũng chỉ mô tả việc ghép nhân chứ chưa phải là tạo sinh vô tính.
Ý tưởng và những công trình về nhân bản vô tính xuất hiện trước khi Wilmut tạo con cừu Dolly từ rất lâu. Đầu thập niên 1950s, Robert Briggs và Thomas King đã tạo ra một số con ếch bằng kĩ thuật nhân bản vô tính. Đến năm 1979, Karl Illmensee tuyên bố rằng ông đã thành công nhân bản 3 con chuột, nhưng bằng chứng thì … chưa thấy. Trong những năm sau đó, rất nhiều nhóm trên thế giới cũng đạt chút thành công về mặt kĩ thuật trong nhân bản vô tính, nhưng mãi đến ngày 23/2/1997, nhóm của Ian Wilmut đã thành công tạo ra một con cừu hoàn chỉnh bằng kĩ thuật nhân bản vô tính sau rất nhiều lần thất bại và phải vượt qua bao nhiêu vấn đề về kĩ thuật.
Thật ra, nói Ian Wilmut cũng không công bằng, bởi vì trong thực tế ông không biết kĩ thuật nhân bản vô tính và ông cũng không phải là tác giả của kĩ thuật đó; ông chỉ là … sếp. Người thật sự có công trong công trình con cừu Dolly là Tiến sĩ Keith Campbell và Tiến sĩ Prim Singh, hai chuyên gia về sinh học phân tử. Trong phiên tòa tranh chấp về tác quyền, ông Wilmut thú nhận rằng ông chỉ đóng vai trò giám thị, chứ không tạo ra con cừu Dolly (ông nói: "I did not create Dolly"). Nhưng trớ trêu thay, khi nói đến Dolly người ta chỉ biết đến Wilmut, chứ chẳng ai biết đến Campbell và Sing! Đã đến lúc phải ghi nhận công của hai chuyên gia âm thầm này. Phiên tòa này là một bài học quí báu cho tình trạng cướp công trong khoa học vốn rất phổ biến ngày nay, ngay cả ở Việt Nam. Nghiên cứu sinh và cộng sự làm cật lực, nhưng các sếp thì nghiểm nhiên kí tên mình như là người phát kiến!
Đọc xong bài báo này mới thấy ngậm ngùi cho số phận của những nghiên cứu sinh ra ngoài học rồi về nước. Hóa ra, số phận đau khổ của nghiên cứu sinh hồi hương không phải chỉ xảy ra trong thời gian gần đây, mà đã xảy ra ở ngoài Bắc từ thập niên 1970s (và có thể trước đó), như trường hợp của Gs Nguyễn Mộng Hùng được mô tả trong bài báo dưới đây. Làm nghiên cứu sinh ở Nga, trong lĩnh vực độc đáo và tiền phong, có công trình đăng trên Nature và vài tập san tiếng Nga, nếu ông là người Hàn Quốc hay ở Mĩ hay một nước Tây phương, thì chắc ông đã có một tương lai xán lạng, và có thể đóng góp nhiều cho khoa học quốc tế. Thế nhưng, ông không phát huy được tài năng của mình ngay trên quê nhà. Suốt 4 thập niên sau đó, tên tuổi ông hầu như vắng bóng trên trường khoa học quốc tế. Đó là một kết cục đau buồn về sự nghiệp của một nhà khoa học đầy triển vọng, và đau buồn hơn là sự việc xảy ra ở Việt Nam.
Quay lại câu chuyện có phải nhân bản vô tính bắt đầu từ Việt Nam, tôi nghĩ chưa có bằng chứng nào để nói như thế. Khả năng về sinh học phân tử, di truyền học, công nghệ sinh học của Việt Nam còn rất rất thấp so với các nước tiên tiến. Có thể các trung tâm khoa học ở Việt Nam có nhiều máy móc, nhưng sử dụng máy móc cho nghiên cứu gì và thành quả ra sao thì lại là một câu chuyện khác. Chúng ta còn phải học rất rất nhiều để nắm lấy những kĩ thuật cơ bản, chứ không phải đào tạo “gà nòi” cho các kì thi Olympic để lấy những huy chương dành cho … học trò.
NVT
===
http://www.hanoimoi.com.vn/forumdetail/Cong-nghe/6797/nhan-b7843n-vo-tinh-b7855t-2737847u-t7915-vi7879t-nam.htm
Nhân bản vô tính bắt đầu từ Việt Nam?
Tháng 2-1997, khi cả thế giới ngỡ ngàng trước sự ra đời của chú cừu Dodly thì không ít nhà quản lý khoa học Việt Nam cũng giật mình bởi trước đó 20 năm, đã có một giảng viên Trường đại học Tổng hợp Hà Nội tạo dòng vô tính thành công trên đối tượng cá chạch khi còn là nghiên cứu sinh tại Liên Xô.
Nhà sinh học người Anh I.A.Wilmut đã được nhận giải Nobel sau "bước đột phá Dodly"; còn nay, Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Mộng Hùng người tạo ra con cá chạch vô tính đầu tiên sau bao năm đóng góp cho nền khoa học nước nhà, đang chờ ngày về hưu...
Thành công nhờ nghị lực lớn
Cũng như bao hoc sinh Việt Nam khác thời kỳ những năm 1960 - 1970, sau khi học hết lớp 10, Nguyễn Mộng Hùng một chân định xỏ giày đi lính, một chân ngấp nghé bậc thềm đại học. Vốn yêu thích những linh kiện điện tử, nhờ kết quả học tập cao, Hùng được gọi ngay đi ghi tên theo lớp ngoại ngữ để chuẩn bị sang Liên Xô nhưng chuyên ngành được phân công (môn sinh học) lại khác hẳn so với dự định. 19 tuổi, bước vào một bộ môn khó đòi hỏi phải giỏi toàn diện các môn khoa học tự nhiên, sau hai năm học đại cương ở Trường đại học (ĐH) Rostov trên sông Đông đạt kết quả xuất sắc, Nguyễn Mộng Hùng được chuyển lên ĐH Tổng hợp Lomonosov danh tiếng ở Moscow. Có cơ hội nghiên cứu tại một trung tâm đào tạo khoa học cơ bản lớn, Hùng tiếp tục dấn thân vào chuyên ngành phôi, khó hơn nhưng lý thú và "đầy ắp những khả năng khám phá".
Tiến sĩ Hùng kể lại rằng, thời đó, ngay cả ở Liên Xô, việc đưa kết qua nghiên cứu ra ứng dụng trong đời sống không hẳn đã phát triển đến mức cần thiết. Thế nhưng, anh sinh viên năm cuối Nguyễn Mộng Hùng đã dám chọn một đề tài có tính thực tiễn cao để làm luận văn tốt nghiệp: "Tìm hiểu mối quan hệ miễn dịch giữa mẹ và thai nhi" ở công trình đầu tay này, Nguyễn Mộng Hùng đã chứng minh được giữa cơ thể mẹ (động vật) và cơ thể con có thể có những xung khắc gây ra những hiện tượng... có hại cho thai nhi. Tờ báo Công nghiệp chủ nghĩa xã hội của Liên Xô lúc bấy giờ đã đến xin và trích đăng phần kết bản luận văn được giới khoa học đánh giá cao của Hùng. Sự kiện nghiên cứu sinh Việt Nam Nguyễn Mộng Hùng (khi đó mới 37 tuổi) thử nghiệm thành công tạo dòng vô tính trên loài động vật máu lạnh: Cá chạch, ngay lập tức đã được tạp chí khoa học nổi tiếng của Anh Nature công bố, trích đăng công trình. Cũng trên tờ tạp chí này, 20 năm sau, sự ra đời của chú cừu Dodly được công bố, qua bàn tay giới truyền thông phương Tây đã gây chấn động thế giới...
Về nước công tác tại Viện khoa học Việt Nam rồi sang giảng dạy tại Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội, năm 1975 Nguyễn Mộng Hùng tiếp tục được Nhà nước cử sang Liên Xô lần thứ hai để làm luận án phó tiến sĩ. Bằng nghị lực từ khói lửa cuộc chiến tranh vừa tan ở quê nhà, nghĩ nghiên cứu khoa học cũng là chiến đấu cho sự phồn vinh của đất nước, Nguyễn Mộng Hùng lại chọn một đề tài khó mà ngay đến giáo sư hướng dẫn cũng phải thầm dự phòng cho anh một công trình khác để "cấp cứu" trong trường hợp đề tài Hùng chọn không thể thí nghiệm thành công. Tuy vậy, với tư cách một nghiên cứu sinh, "cậu học trò bướng bỉnh" Việt Nam cứ dần sưu tầm tài liệu, tìm tòi cho một công trình để đời. Nguyễn Mộng Hùng là người đầu tiên tiến hành nghiên cứu tạo dòng vô tính trên cá chạch. Thầy hướng dẫn là Giáo sư K. G. Gazarian chuyên về sinh học phân tử trong khi sinh sản vô tính lại thuộc chuyên ngành phôi sinh học thực nghiệm, Nguyễn Mộng Hùng phải tìm đến Phó tiến sĩ Nikitina - cán bộ của Viện sinh học phát triển - khi đó là người duy nhất ở Liên Xô cũng có ý tưởng tạo dòng vô tính như Hùng nhưng đối tượng của bà là ếch. Tiếp thu phương pháp rồi dành toàn bộ thời gian cho công trình của mình; thiếu dụng cụ thí nghiệm, Nguyễn Mộng Hùng phải tự mày mò chế tạo máy mài, máy kéo để làm ra những dụng cụ đặc biệt, từ cái tanh đến chiếc kim mảnh hơn sợi tóc (đường kính chỉ có 20 - 30msm) dùng để tách phôi. Theo nguyên tắc chung khi tiến hành nhân bản vô tính, phải thực hiện hàng loạt các vi thao tác như phân ly và lấy nhân của tế bào, sau đó cấy vào trứng của vật nuôi (đã được khử nhân bằng tia rơn-ghen và hoạt hóa từ trước) để tạo ra một loạt dòng vô tính. Chính vì đòi hỏi điều kiện kỹ thuật với độ chính xác, khéo léo của phương pháp này rất cao nên tỷ lệ cấy ghép thành công rất thấp: ở cừu là 277 lần được một, ở ếch là 700 lần hỏng mới có một lần thành công. Nguyễn Mộng Hùng không nằm ngoài quy luật, hơn một năm quanh quẩn bên phòng thí nghiệm với gần 2.000 lần cấy ghép không mang lại kết quả, tưởng đã thất bại nhưng cuối cùng, vào đầu năm 1977, con cá chạch nhân bản vô tính đầu tiên trên thế giới đã được cha đẻ Nguyễn Mộng Hùng cho ra đời trong sự ngỡ ngàng của nhiều nhà sinh học Xô Viết...
Chân trời khoa học và những ước mơ
Theo quy định của Đại sứ quán Việt Nam, một tuần sau khi bảo vệ xong luận án, Phó tiến sĩ Nguyễn Mộng Hùng xách vali, cầm bản sao công trình nghiên cứu của mình về nước. Ngay khi chọn cá chạch làm đối tượng thử nghiệm, anh đã lưu ý đến khả năng ứng dụng cao của nó tại Việt Nam để tạo dòng cao sản các loại cá trê, mè, trắm... có giá trị kinh tế đáng kể cho đất nước trong những năm 70, 80. Tuy nhiên, khi trình bày với hiệu phó Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội, khi đó là Giáo sư Nguyễn Đình Tứ, những khả năng của bản luận án được đánh giá cao ở nước ngoài của Nguyễn Mộng Hùng lại không có cơ hội để phát triển ở trong nước. Một phần do điều kiện khó khăn. Trường ĐH Tổng hợp khi đó còn thiếu cả điện, nước nên Phó tiến sĩ Nguyễn Mộng Hùng sau khi ở Nga về chỉ là một giảng viên bình thường với những công trình nhỏ hơn như tạo huyết thanh cho ngựa chửa, tạo mẫu sinh lưỡng bôi cho cá trê và cá chép Việt Nam...
Nay đã 59 tuổi, mắt mờ, tay đã run, Tiến sĩ Nguyễn Mộng Hùng nuối tiếc: "Công trình cấy nhân các tế bào xôma vào trứng cá xương trên thí dụ cá chạch Misgurmus fossilis của tôi thực chất mới chỉ là bước đột phá ban đầu của nhân bản vô tính. Để tiến hành trên cơ thể động vật có vú đòi hỏi thời gian, tài năng và kỹ thuật cao hơn. Thế nhưng đã 24 năm kể từ ngày con cá chạch vô tính đầu tiên ra đời, vẫn không có ai thử nghiệm thành công tạo dòng vô tính trên loài cá, cả ở Nga lẫn ở Việt Nam"...
Sau sự kiện cừu Dodly tháng 2-1997, Nhà nước ta cũng quan tâm, cho Viện chăn nuôi (thuộc Trung tâm khoa học tự nhiên và Công nghệ quốc gia) một dự án lớn, lập phòng thí nghiệm trọng điểm. Viện công nghệ sinh học cũng đã bắt tay vào nghiên cứu. Tuy nhiên, kết quả tạo dòng vô tính của cả hai viện trên đều đang còn ở mức khá khiêm tốn. Học trò người Nga của Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Mộng Hùng (theo học khi ông đang còn là nghiên cứu sinh) nay cũng mới chỉ thành công trên phương diện hẹp. Riêng một thạc sĩ ở Trường ĐH Khoa học tự nhiên (ĐH Quốc gia Hà Nội) được Tiến sĩ Hùng hướng dẫn phương pháp nay đã tiến hành được đến bước phân cắt, cấy nhân vào phôi sống, nhưng dòng vô tính chỉ tồn tại được trong một thời gian ngắn.
Đặt kỳ vọng vào thế hệ kế cận, Tiến sĩ Nguyễn Mộng Hùng trầm tư: "Thế hệ trẻ sẽ làm được những việc mà thế hệ chúng tôi chưa làm được. Nhưng để đạt được cái gì đó chúng ta cần một sự đầu tư lớn"...
Gặp lại các đồng nghiệp sau 20 năm
Khi đưa đoàn học sinh giỏi Việt Nam dự thi sinh học quốc tế. Chúng tôi đến thăm ông tại hiệu vàng Tín Thịnh trên đường đê La Thành, như khép lại những khát vọng của tuổi trẻ, Tiến sĩ Hùng giải thích rồi nhỏ nhẹ: "Cửa hàng phía ngoài đó là tôi cho người ta thuê. Trong cuộc đời làm khoa học của mình, tôi có một "bằng khen" (bức tranh do Chủ tịch nước Trần Đức Lương ký tặng) với thành tích đưa đoàn học sinh giỏi Việt Nam đi thi Olympic sinh học quốc tế đoạt Huy chương vàng"... Nhìn khuôn người nhỏ nhắn, nét mặt đăm chiêu cố hữu của Tiến sĩ Nguyễn Mộng Hùng, tôi chợt ngẫm, giá như, đất nước chúng ta không bị chiến tranh thì sự nghiệp của người Việt Nam đầu tiên thử nghiệm thành công nhân bản vô tính trên cá chạch có lẽ không chỉ dừng lại ở những tấm bằng khen...
Theo Thời báo Tài chính Việt Nam
0 nhận xét:
Đăng nhận xét